Trách nhiệm hình sự của pháp nhân: Những vấn đề cần tiếp tục tháo gỡ

16/10/2019 14:00

(Pháp lý) - Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 lần đầu tiên quy định về “Pháp nhân thương mại phạm tội”. Theo quy định này, rất nhiều hành vi vi phạm phổ biến trước đây như việc trốn thuế, vi phạm môi trường, sa thải lao động trái pháp luật... doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sau hơn 1 năm thực hiện, những quy định này cũng bộc lộ những vướng mắc, cần hoàn thiện.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa)

Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Trách nhiệm hình sự (TNHS) của pháp nhân thương mại (PNTM) là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà PNTM phải gánh chịu trước nhà nước, do thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà những hành vi này được quy định là tội phạm trong pháp luật hình sự.

Việc truy cứu TNHS đối với PNTM không chỉ áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam mà còn có thể áp dụng đối với hành vi của PNTM nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam (trừ các đối tượng thuộc trường hợp được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam), nhưng hành vi đó xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của Việt Nam hoặc được quy định là tội phạm trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (khoản 1 Điều 5, Điều 6 BLHS 2015)

Quy định TNHS của pháp nhân là phù hợp với lý luận trong pháp luật quốc tế và các khuyến nghị của Liên Hợp Quốc, cũng như điều kiện kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay. Trước kia, trong nền kinh tế kế hoạch hóa, pháp nhân chủ yếu là các pháp nhân công (các doanh nghiệp Nhà nước và sản xuất sản phẩm hàng hóa theo kế hoạch của Nhà nước), nên việc không đặt vấn đề xem xét trách nhiệm pháp lý của pháp nhân cũng là điều có thể chấp nhận được. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, ở Việt Nam đã và đang tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, sản xuất ra các sản phẩm với các mục đích khác nhau. Nhiều doanh nghiệp vì lợi nhuận đã thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, xã hội và người dân, nên ngoài các dạng trách nhiệm pháp lý khác trách nhiệm hành chính, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự, thì việc quy định TNHS đối với pháp nhân để xử lý những hành vi nguy hiểm do pháp nhân thực hiện gây thiệt hại cho lợi ích của người dân, cơ quan, tổ chức là cần thiết.

Thực tế cho thấy nhiều PNTM đã vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường , phổ biến nhất là trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản và môi trường đô thị. Để tăng lợi nhuận, giảm chi phí sản xuất, nhiều pháp nhân, doanh nghiệp đã cố ý trực tiếp xả thải ra môi trường không qua xử lý, gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường sống, cho sản xuất của nông dân, ảnh hưởng nghiêm trọng lâu dài đến sức khỏe của nhân dân. Trong đó số vụ xả nước thải và khí thải chiếm trên 90%.

Một vi phạm khá phổ biến khác là lĩnh vực thuế. Trong những năm qua, hành vi trốn thuế bằng nhiều hình thức khác nhau của các pháp nhân cũng xảy ra rất phổ biến, làm giảm thu ngân sách cho Nhà nước hàng chục ngàn tỷ đồng. Có trường hợp thanh tra thuế đã buộc doanh nghiệp phải giảm lỗ lên tới hơn 4.192 tỉ đồng. Cũng theo đánh giá của các cơ quan thanh tra thuế, số tiền truy thu chủ yếu tập trung ở khu vực doanh nghiệp FDI (chiếm 40% tổng số thu), tỷ lệ số thu bình quân trên một doanh nghiệp là 1,73 tỉ đồng. Đáng lưu ý là tại một số địa phương, tỷ lệ vi phạm lên đến 100% như Cục thuế Bắc Giang (thanh tra 16 doanh nghiệp thì cả 16 đều vi phạm). Tỷ lệ này diễn ra tương tự tại Hòa Bình (16/16), Gia Lai (15/15)… Tại một số tỉnh, thành phố khác dù mức độ vi phạm không đến 100% nhưng tỷ lệ này cũng rất lớn như Hà Nội (thanh tra 332 doanh nghiệp thì phát hiện có 326 đơn vị vi phạm, số tiền giảm lỗ hơn 1.500 tỉ đồng, truy thu, phạt, truy hoàn gần 498 tỉ đồng); hay TP. Hồ Chí Minh khi các cơ quan chức năng tiến hành thanh tra 193 doanh nghiệp FDI, có tới 164 doanh nghiệp vi phạm, giảm lỗ hơn 870 tỉ đồng và truy thu, phạt gần 173 tỉ đồng.

Bên cạnh đó là vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm… với mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. Do đó, quy định truy cứu TNHS đối với PNTM là yêu cầu cấp bách, phù hợp với thực tế Việt Nam và quốc tế.

Những quy định cụ thể

Theo quy định của BLHS năm 2015, PNTM phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Chương XI BLHS năm 2015, theo quy định khác của Phần thứ nhất BLHS năm 2015 không trái với quy định của Chương XI BLHS năm 2015.

Điều 75 BLHS năm 2015 quy định PNTM phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM; Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM; Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM; Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 BLHS năm 2015.

image002Theo quy định tại Điều 76 BLHS năm 2015, PNTM phải chịu trách nhiệm hình sự các tội sau đây: Tội buôn lậu (Điều 188); Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 189); Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190); Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194); Tội sản xuất buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi (Điều 195); Tội đầu cơ (Điều 196); Tội trốn thuế (Điều 200); Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 203); Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán (Điều 209); Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 210); Tội thao túng thị trường chứng khoán (Điều 211); Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216); Tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217); Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 225); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226); Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (Điều 227); Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản (Điều 232); Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234); Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235); Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường (Điều 237); Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238); Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239); Tội hủy hoại nguồn thủy sản (Điều 242); Tội hủy hoại rừng (Điều 244); Tội vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 245); Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 246); Tội tài trợ khủng bố (Điều 300) và Tội rửa tiền (Điều 324).

Theo quy định tại Điều 33 BLHS năm 2015, hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội có hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Không loại trừ TNHS của cá nhân

Tại khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định: “Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”. Quy định này được hiểu là: Trường hợp pháp nhân thương mại có đủ bốn điều kiện chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội đã thực hiện. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cần làm rõ trách nhiệm của cá nhân trong Hội đồng quản trị của PNTM đã quyết định dẫn đến pháp nhân thương mại phạm tội có đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm thì cá nhân đó cũng phải chịu TNHS. Đối với Giám đốc, Tổng Giám đốc điều hành của PNTM là người làm thuê của PNTM biết rõ công việc được giao làm là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn làm, gây hậu quả là PNTM bị khởi tố về hình sự. Trường hợp này cá nhân là Giám đốc, Tổng Giám đốc của PNTM phạm tội cũng phải chịu TNHS.

Kiểm tra tại hiện trường vụ xả nước thải không qua xử lý ra môi trường
Kiểm tra tại hiện trường vụ xả nước thải không qua xử lý ra môi trường)

Những bất cập cần hướng dẫn, tháo gỡ

Quy định của BLHS năm 2015 về việc áp dụng TNHS đối với PNTM cũng còn một số điều cần làm rõ. Trước hết là phân loại tội phạm. Theo Điều 9 BLHS năm 2015 thì tội phạm được phân loại thành 4 loại gồm: Tội phạm ít nghiêm trọng; Tội phạm nghiêm trọng; Tội phạm rất nghiêm trọng; Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng… Căn cứ xác định mức độ nghiêm trọng là mức cao nhất của khung hình phạt, trong đó tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Tuy nhiên, theo BLHS thì chế tài xử lý đối với PNTM không có hình phạt tù. Vậy trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội bị áp dụng hình phạt thì dựa vào căn cứ nào để phân loại tội phạm trong trường hợp này đối với pháp nhân được phân loại là tội phạm gì . Do đó, cần phải quy định căn cứ để phân loại tội phạm đối với PNTM phạm tội.

BLHS năm 2015 cũng chỉ mới quy định TNHS đối với PNTM về các nhóm tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế, tội phạm về môi trường và tội phạm về an toàn công cộng, còn đối với các nhóm tội phạm khác thì chưa đặt ra như: Nhóm các tội phạm về chức vụ (tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ...); tội phạm mua bán người... Thực tế cho thấy, những tội phạm này hoàn toàn có thể được thực hiện bởi các pháp nhân. Điều này cũng thể hiện sự thiếu tương thích của BLHS với yêu cầu của các công ước quốc tế về phòng chống tội phạm mà Việt Nam là thành viên như: Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Công ước chống tham nhũng…

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế về pháp luật và tư pháp diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều công ước quốc tế về phòng, chống tội phạm. Mặc dù khi tham gia các Công ước này, đặc biệt là Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Việt Nam tuyên bố không bị ràng buộc về quy định TNHS của pháp nhân, nhưng theo quy định tại Điều 10 của Công ước này, các quốc gia thành viên phải ban hành những biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc pháp lý của nước mình, để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc thực hiện những hành vi phạm tội như: Tham gia nhóm tội phạm có tổ chức (Điều 5); Rửa tiền (Điều 6); Tham nhũng (Điều 8); Cản trở công lý (Điều 23).

Điều 10 về “Cố ý phạm tội”, Điều 11 về “Vô ý phạm tội”, Điều 17 về “Đồng phạm”… của BLHS năm 2015 đều quy định cho người phạm tội mà không quy định cho PNTM phạm tội. Trong khi đó, Điều 8 về “Khái niệm tội phạm” lại nêu: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”; Điều 85 về “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại” lại có đề cập đến trường hợp PNTM “câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội” (điểm a khoản 1 Điều 85)… Do đó, đề nghị các nhà làm luật nghiên cứu, bổ sung điều luật về lỗi cố ý và vô ý đối với PNTM phạm tội và vấn đề đồng phạm của PNTM phạm tội trong BLHS năm 2015. Hơn nữa, trong vụ án hình sự liên quan đến PNTM bị buộc tội, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh, xác định rõ các tình tiết đặc trưng gắn liền với pháp nhân tại Điều 441 BLTTHS năm 2015, trong đó có việc chứng minh một vấn đề quan trọng – “Lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân” (khoản 2).

 Minh Khuê

Bạn đang đọc bài viết "Trách nhiệm hình sự của pháp nhân: Những vấn đề cần tiếp tục tháo gỡ" tại chuyên mục Bên khung cửa tư pháp. Mọi chi tiết xin liên hệ số hotline (0915.999.467) hoặc gửi email về địa chỉ (toasoan@phaply.vn).

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin