Công lý vượt qua pháp luật
(Pháp lý) - Là một Thẩm phán, làm đến Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đồng thời là Trung tướng, Chánh án Tòa án quân sự Trung ương, nhưng suốt cả cuộc đời gắn bó với hoạt động xét xử ông chưa từng tuyên một bản án tử hình nào, trường hợp nào ông cũng tìm thấy lý do để họ được sống…
Nhận diện những điểm yếu của Luật – một trong những nguyên nhân khiến vốn nhà nước tại doanh nghiệp bị thất thoát, lãng phí…
(Pháp lý) - Báo cáo kết quả kiểm toán năm 2019 của Tổng Kiểm toán nhà nước Trần Sỹ Thanh trình bày tại kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa XV đã làm lộ diện những lỗ hổng và vi phạm các quy định pháp luật trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại 160 doanh nghiệp thuộc 17 tập đoàn và tổng công ty.
Một số bất cập pháp lý trong thực tiễn thi hành Luật Đầu tư 2020
Luật Đầu tư năm 2020 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 (Luật Đầu tư 2020). Mặc dù mới thực thi được hơn 7 tháng nhưng đã phát sinh vướng mắc, bất cập, ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và công tác quản lý nhà nước về đầu tư. Bài viết này tập hợp và phản ánh lại cho doanh nghiệp một số bất cập pháp lý trong thực tiễn thi hành Luật Đầu tư 2020 theo công điện số 1079/CD-TTg ngày 14/8/2021 của Thủ tướng Chính Phủ.
Ảnh minh họa.
1. Theo điều 31 Luật Đầu tư 2020, trừ các dự án đầu tư quy định tại điều 30 thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án đầu tư sau đây: “1. Dự án đầu tư không phân biệt nguồn vốn thuộc một trong các trường hợp sau đây:..g) Dự án đầu tư xây dựng nhà ở (để bán, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị trong các trường hợp: dự án đầu tư có quy mô sử dụng đất từ 50 ha trở lên hoặc có quy mô dưới 50 ha nhưng quy mô dân số từ 15.000 người trở lên tại khu vực đô thị; dự án đầu tư có quy mô sử dụng đất từ 100 ha trở lên hoặc có quy mô dưới 100 ha nhưng quy mô dân số từ 10.000 người trở lên tại khu vực không phải là đô thị; dự án đầu tư không phân biệt quy mô diện tích đất, dân số thuộc phạm vi bảo vệ của di tích được cấp có thẩm quyền công nhận là di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt; ...h) Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất;…
Với dự án đầu tư quy định tại điểm g), điểm h) khoản 1 điều 31 nêu trên, có địa phương đề xuất phân cấp thẩm quyền cho UBND cấp tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư các Dự án đầu tư xây dựng nhà ở (để bán, cho thuê, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị có quy mô sử dụng đất dưới 200 ha, Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất có quy mô sử dụng đất dưới 500 ha. Nếu được Quốc hội thảo luận thông qua đề xuất sửa đổi này, đây sẽ là bước đột phá thủ tục về thẩm quyền, rút gọn thời gian trước đây nhà đầu tư hai loại dự án này thông thường phải mất hàng năm để có được chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ căn cứ tờ trình của Bộ kế hoạch và đầu tư sau khi tập hợp ý kiến của rất nhiều bộ, ngành trung ương và địa phương.
2. Về thẩm quyền chấp thuận đầu tư ra nước ngoài của Thủ tướng Chỉnh phủ, khoản 2 điều 56 Luật Đầu tư 2020 quy định: 2. Trừ các dự án đầu tư quy định tại khoản 1 điều này thuộc thẩm quyền chấp thuận của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án đầu tư sau đây: a) Dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ đồng trở lên; b) Dự án đầu tư không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 800 tỷ đồng trở lên." Có địa phương đề xuất nghiên cứu, phân cấp thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án đầu tư này, tăng quy mô vốn đầu tư dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính Phủ. Phân cấp các dự án dưới quy mô vốn cho Bộ kế hoạch và đầu tư.
3. Pháp luật đất đai và pháp luật đầu tư chưa có quy định thống nhất trong việc quyết định chủ trương thực hiện dự án (đối với dự án ngoài ngân sách) với kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện. Tại điểm a khoản 3 điều 33 Luật Đầu tư 2020 quy định:“Nội dung thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư bao gồm: a) Đánh giá sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị và quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (nếu có); b) Đánh giá nhu cầu sử dụng đất;”. Tại khoản b khoản 4 điều 33 quy định: “Nội dung thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư bao gồm:...b) Khả năng đáp ứng điều kiện giao đất, cho thuê đất đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư; khả năng đáp ứng điều kiện chuyển mục đích sử dụng đất đối với dự án có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất”. Việc xác định dự án cần có trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện được phê duyệt mới quyết định chủ trương đầu tư. Quy định này không rõ quyết định chủ trương đầu tư trước sau đó mới phê duyệt hồ sơ dự án vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện, hay dự án phải có trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện do UBND tỉnh phê duyệt thì mới được chấp thuận chủ trương đầu tư. Có địa phương có đề xuất trong khi chưa sửa đổi Luật đất đai 2013, quy hoạch tỉnh chưa được phê duyệt, thì bổ sung quy định của Luật đầu tư 2020, đối với dự án chưa có trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì vẫn được chấp thuận chủ trương đầu tư sau đó cập nhật bổ sung vào kế hoạch sử dụng đất của cấp huyện.
4. Vướng mắc về thủ tục đầu tư liên quan khoản 4 điều 29 Luật Đầu tư quy định và điều 62 (Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng) và điều 63 (Căn cứ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng) của Luật Đất đai 2013, Luật Đấu thầu: Điều 29 Luật Đầu tư 2020 quy định các hình thức lựa chọn nhà đầu tư thông qua một trong các hình thức: đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về đấu thầu, chấp thuận chủ trương đầu tư dự án đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư không thông qua đấu giá, đấu thầu áp dụng khi nhà đầu tư được cơ quan có thẩm quyền cho phép nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án phi nông nghiệp. Nhiều địa phương có đề xuất trong khi chưa sửa đổi Luật đất đai 2013, đề nghị sửa đổi, bổ sung điều 29 Luật Đầu tư 2020 theo hướng:
- Các dự án thuộc trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất, chỉ áp dụng đối với quỹ đất đã giải phóng mặt bằng thuộc quyền quản lý, sử dụng của Nhà nước và việc thực hiện chấp thuận chủ trương đầu tư (để quản lý dự án) thực hiện sau khi Nhà đầu tư đã trúng giá quyền sử dụng đất.
- Các dự án thuộc trường hợp đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, chỉ áp dụng đối với dự án do cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập, phê duyệt phương án lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án đã có quỹ đất thuộc quyền quản lý của nhà nước, việc chấp thuận chủ trương đầu tư (để quản lý dự án) thực hiện sau khi nhà đầu tư đã trúng thầu dự án được lựa chọn.
- Đối với dự án khác có quỹ đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của nhà đầu tư do nhà đầu tư đã hoàn thành việc nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp, đất khác (trừ đất thuộc quyền sử dụng của nhà nước), dự án sản xuất kinh doanh phi thương mại chuyển thành dự án nhà ở, khu đô thị...thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương, giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu. Hủy bỏ các quy định của Luật Đất đai trái với quy định của Luật Đầu tư.
5. Vướng mắc giữa Luật Đầu tư 2020 và Luật nhà ở liên quan đến chấp thuận chủ trương đầu tư dự án nhà ở: Theo quy định tại khoản 3 điều 76 Luật Đầu tư 2020, thì điều 75 Luật Đầu tư 2014 vẫn có hiệu lực thi hành về việc sửa đổi bổ sung một số điều của các luật có liên quan đến đầu tư kinh doanh, trong đó sửa đổi bổ sung khoản 1 điều 23 Luật Nhà ở về hình thức sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng thương mại, như sau: “1. Có quyền sử dụng đất ở hợp pháp và các loại đất khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang làm đất ở.”. và sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 170 Luật Nhà ở như sau: “2. Đối với dự án xây dựng nhà ở khác thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư thì thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư.”. Các quy định này gây rất nhiều vướng mắc cho các địa phương, được hiểu là tất cả các dự án nhà ở thì phải có đất ở, không phù hợp trong trường hợp chủ đầu tư có quỹ đất hợp pháp khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang làm đất ở đã được xem xét sự phù hợp quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng thì được thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư dự án nhà ở. Một số địa phương có đề nghị bãi bỏ quy định này, sửa đổi Luật Đầu tư 2020 về hình thức sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, theo đó, nhà đầu tư có quyền sử dụng đất ở hoặc các loại đất khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang làm đất ở.
6. Quy định vướng mắc giữa Luật đầu tư 2020 và Luật Lâm nghiệp liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng. Trong Luật Đầu tư và Nghị định 31/2021/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết và thi hành một số điều của Luật Đầu tư đều không quy định thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừngthực hiện trước hay sau chấp thuận chủ trương đầu tư, chỉ quy định trình tự đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương của Chính phủ, không hướng dẫn đối với địa phương. Tại khoản 4 điều 1 Nghị định 83/2020/NĐ-CP quy định: “4. Đối với dự án đầu tư có chuyển mục đích sử dụng rừng, thì chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng là một nội dung trong chấp thuận chủ trương đầu tư dự án”. Một số địa phương có đề xuất sửa đổi Luật đầu tư quy định rõ, trong giai đoạn đầu tư có ý kiến thẩm định của Bộ NN &PTNT về việc đủ điều kiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng của dự án khi đủ điều kiện chuyển đổi theo quy định của Luật Lâm nghiệp, có thể được thực hiện trước hoặc sau khi dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư.
Doanh nghiệp mong muốn Chính phủ tập trung ưu tiên xử lý dứt điểm những vướng mắc, tồn tại trong Luật Đầu tư 2020 nêu trên, để góp phần phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn.
Theo doanhnghiephoinhap.vn
Nguồn bài viết: https://doanhnghiephoinhap.vn/mot-so-bat-cap-phap-ly-trong-thuc-tien-thi-hanh-luat-dau-tu-2020.html
Covid-19 và quyền con người: Vì một thế giới tốt đẹp hơn
Covid-19 tác động đa chiều và mạnh mẽ tới đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia, không phân biệt nước lớn hay nước nhỏ, nước giàu hay nước nghèo, và đương nhiên là ảnh hưởng sâu sắc đến sự thụ hưởng các quyền con người.
Hóa đơn điện tử có mã: Đừng tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp!
Hàng ngàn doanh nghiệp đã khóc ròng sau hơn một tháng chuyển sang thí điểm áp dụng hóa đơn điện tử có áp mã của cơ quan thuế.
Hai kẽ hở lớn trong Luật Giá và Luật Đấu thầu
(Pháp lý) – Nghiên cứu từ các vụ án vi phạm quy định về đấu thầu trong mua sắm thiết bị y tế bị cơ quan điều tra phát hiện và khởi tố thời gian qua, Tạp chí điện tử Pháp lý đã từng đăng tải một số bài viết phân tích và chỉ ra những lỗ hổng lớn trong 2 Luật quan trọng có liên quan – Luật Giá và Luật đầu thầu , đồng thời kiến nghị sửa luật để ngăn chặn hành vi thông đồng “thổi giá” từ các doanh nghiệp thẩm định giá…
“Điểm danh” những qui định bất cập trong 29 Luật đang gây khó hoạt động sản xuất, kinh doanh ( kì 1)
(Pháp lý) – 29 Luật cần được ưu tiên nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi thông các “điểm nghẽn”, huy động mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh tình hình đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp. Đó là nội dung chính của Công điện số 1079/CĐ-TTg vừa được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 14/8/2021 gửi đến 10 Bộ trưởng có chức năng liên quan đến các bộ luật được cho còn nhiều qui định bất cập, vướng mắc theo kiến nghị của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Qua nghiên cứu từ thực tiễn, bài viết sau đây của Nhóm PV thuộc Tạp chí Pháp lý sẽ chỉ ra những qui định bất cập trong 29 Luật đang cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh…
Ảnh minh họa
Những “nút thắt” cần tháo gỡ trong Luật Đầu tư công
Mặc dù được kỳ vọng sẽ tháo được nút thắt trong việc giải ngân đầu tư công, song vừa mới ban hành, Luật Đầu tư công 2019 đã bộc lộ sự bất cập. Đến cuối tháng 7/2021, kết quả giải ngân vốn đầu tư công mới đạt 36,71% so với kế hoạch năm 2021, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2020 (40,67%); đặc biệt tỷ lệ giải ngân vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài rất thấp (7,52%); thậm chí còn nhiều cơ quan chưa giải ngân (0%)…
Tỉ lệ giải ngân thấp làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, gây lãng phí nguồn lực, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, việc triển khai các chính sách tài khoá, tiền tệ, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang chịu tác động của đại dịch COVID-19.
Không thể phủ nhận 2 nguyên nhân khách quan tác động, đó là đại dịch Covid -19 và vai trò người đứng đầu chưa được phát huy đầy đủ. Các chuyên gia cho rằng, vướng mắc còn là do các nội dung điều luật điều chỉnh trong Luật Đầu tư công 2019 chưa theo kịp với tình hình thực tiễn.
29 luật yêu cầu nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung ngay, gồm: Bộ KH&ĐT 7 luật (Luật đầu tư, Luật đầu tư công, Luật quy hoạch, Luật doanh nghiệp, Luật đấu thầu, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật PPP); Bộ Tài chính 6 luật (Luật NSNN, Luật phí, lệ phí, Luật quản lý sử dụng tài sản công, Luật quản lý vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, Luật thuế TNDN, Luật dự trữ quốc gia); Bộ Công Thương 1 luật (Luật điện lực); Bộ TN&MT 2 luật (Luật khoáng sản, Luật bảo vệ môi trường); Bộ Xây dựng 5 luật (Luật xây dựng, Luật nhà ở, Luật quy hoạch đô thị, Luật kinh doanh bất động sản, Luật kiến trúc); Bộ GTVT 2 luật (Luật đường sắt, Luật hàng không VN); Bộ NN&PTNT 1 luật (Luật lâm nghiệp), Bộ TTTT 1 luật (Luật giao dịch điện tử); Bộ Tư pháp 2 luật (Luật công chứng, Luật đấu giá tài sản); Bộ Nội vụ 2 luật (Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Chính phủ).
Trước hết về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư (khoản 1 Điều 8 Mục I Chương II) và thẩm quyền quyết định đầu tư (Điều 35 Mục II Chương II). Được hiểu là phần lớn nguồn vốn đầu tư công phụ thuộc vào thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Trong khi đó các dự án có nhu cầu giải ngân mạnh nguồn vốn đầu tư công thời gian qua chủ yếu Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư và nguồn vốn sử dụng chủ yếu là vốn ODA.
Báo cáo Quốc hội (5/2021) về kết quả triển khai các công trình, dự án trọng điểm, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) cho biết, bên cạnh các kết quả đạt được, tại một số công trình, dự án trọng điểm đang triển khai vẫn còn khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do vốn đầu tư không đáp ứng yêu cầu, cơ chế giải ngân phức tạp. Bộ GTVT viện dẫn, một số dự án lớn hơn 10.000 tỷ đồng khi điều chỉnh tổng mức đầu tư cần báo cáo Quốc hội thông qua do hình thành yếu tố quan trọng quốc gia... nên đã ảnh hưởng đến tiến độ chung của nhiều dự án đang và sắp triển khai.
Bộ GTVT cho biết, bên cạnh các kết quả đạt được, tại một số công trình, dự án trọng điểm đang triển khai vẫn còn khó khăn…
Tại điểm c, khoản 7, Điều 67, quy định: “HĐND các cấp điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm vốn ngân sách địa phương do thay đổi nhu cầu sử dụng hoặc khả năng triển khai thực hiện vốn kế hoạch hằng năm giữa các cơ quan, đơn vị của địa phương”. Điều đó có nghĩa việc điều chỉnh kế hoạch vốn kế hoạch hằng năm giữa các cơ quan, đơn vị phải chờ đến kỳ họp HĐND. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ giải ngân thấp do không thể điều chuyển vốn từ những dự án ít hoặc không có khả năng giải ngân sang những dự án đang cần vốn.
Điều 27 quy định: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm giao cơ quan chuyên môn hoặc Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư”. Tuy nhiên đối với dự án do các đơn vị không phải là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND các cấp làm chủ đầu tư, thì việc giao cho cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND các cấp lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư chưa thực sự phù hợp, không đủ năng lực, không nắm rõ dự án...
Có ý kiến cho rằng những tồn tại hiện nay trong đầu tư công (như giải ngân chậm, hiệu quả thấp) còn là do không chọn được dự án tốt. Nói cách khác, luật đang đưa ra một quy trình ngược: chia vốn trước, chọn dự án sau. Trong khi lẽ ra nên làm ngược lại? Nhưng chi phí để chuẩn bị dự án ở đâu? Hiện nay phải ghi vốn mới có tiền chuẩn bị dự án, rồi mới thẩm định, phê duyệt và thực hiện.
Một số ý kiến chuyên gia luật cho rằng, để tháo gỡ điểm nghẽn trong đầu tư công, cần nâng mức vốn dự án nhóm A để giảm số dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời phân cấp quyết định chủ trương đầu tư Chương trình, dự án đầu tư sử dụng vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài cho cơ quan chủ quản (trừ các dự án tác động đến cân đối vĩ mô); Cùng với đó là sửa đổi các điều luật điều chỉnh về thẩm quyền theo hướng phân cấp mạnh, giao quyền quyết định đầu tư chương trình, dự án theo ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền cho người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương quyết định đầu tư; và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư các chương trình, dự án được phê duyệt.
Bất cập qui định về “vốn nhà nước tại DN” và vai trò cơ quan đại diện chủ sở hữu
Vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo xác định của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 ( Luật QLSDVNNTDN): “… bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp” (Điều 3)
Cách giải thích như trên dễ ngộ nhận làm sai lệch về xác định các loại vốn, tài sản, sở hữu tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, rất khó tách bạch và xác định được ranh giới pháp lý đâu là tài sản của doanh nghiệp và đâu là tài sản nhà nước. Trong khi đó, theo Luật DN, một khi vốn nhà nước đã góp vào công ty thì tài sản của nhà nước trở thành tài sản của doanh nghiệp (nếu là công ty TNHH MTV), khi đó người đại diện phần vốn góp của nhà nước cũng là một cổ đông bình đẳng như các cổ đông khác (nếu đó là công ty cổ phần).
Nhiều ý kiến tại Hội thảo Luật QLSDVNNTDN về kết quả 5 năm triển khai và định hướng sửa đổi, bổ sung do Bộ Tài chính phối hợp với WB tổ chức (4/2021), đã cho rằng khái niệm “vốn nhà nước”, là nguyên nhân dẫn đến áp dụng sai trình tự, thủ tục pháp lý, vốn tài sản nhà nước trong đánh giá hiệu quả hoạt động của DN; gây khó khăn trong việc tính đúng, tính đủ giá thị trường khi định giá DNNN để cổ phẩn phần hóa, đặc biệt là cơ chế định giá trị quyền sử dụng đất trong giá trị DN chưa phù hợp với thị trường...
Sự can thiệp quá sâu của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước sẽ làm triệt tiêu sự năng động của bộ máy trực tiếp quản trị DNNN
Cũng theo Luật QLSDVNNTDN, các quyết định của HĐTV và Chủ tịch công ty tại công ty (người đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại công ty): Từ chiến lược, kế hoạch đầu tư kinh doanh, huy động vốn đầu tư, phân phối lợi nhuận, cho đến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật Tổng giám đốc hoặc Giám đốc (kể cả đối với Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch công ty)… đều bắt buộc phải thông qua và chỉ được phép thực hiện, sau khi được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt (Điều 42 và Điều 44). Tương tự như vậy, người đại diện phần vốn nhà nước được cử tham gia tại DN (có vốn điều lệ chi phối), trước khi tham gia ý kiến, biểu quyết và quyết định các vấn đề tại công ty trước đại hội cổ đông, HĐQT, HĐTV cũng phải báo cáo và xin ý kiến của cơ quan đại diện chủ sở hữu…(Điều 48).
Sự can thiệp quá sâu của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước là điều kiện cần để kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn nhà nước đầu tư tại các DN; nhưng vô hình trung làm triệt tiêu động lực, sự năng động sáng tạo của bộ máy quản trị trực tiếp hàng ngày tại công ty, không mạnh dạn quyết đoán trong sử dụng đồng vốn của nhà nước vào đầu tư, sản xuất kinh doanh, bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh mười mươi... dẫn tới nguồn vốn không những không sinh sôi nảy nở mà trái lại.
Vì vậy để giải quyết bài toán kinh doanh thua lỗ triền miên, gây thất thoát nghiêm trọng nguồn vốn nhà nước, cùng với nhiều giải pháp phải thực hiện, trong đó không thể không xem xét sửa đổi hoặc bổ sung điều khoản quy định về trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu. Đồng thời có biện pháp chế tài nghiêm khắc, không loại trừ trách nhiệm hình sự, để người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước phải thận trọng và chặt chẽ, trước mỗi quyết định phê duyệt, để việc điều hành, quản lý tại các DNNN có hiệu quả, giảm thiểu rủi ro và thất thoát nguồn vốn nhà nước.
Tăng cường quyền hạn đối với người đại diện chủ sở hữu, từng bước hạn chế quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu. Bởi HĐTV và Chủ tịch công ty là những người trực tiếp quản lý và giám sát mọi hoạt động hàng ngày của Công ty. Theo đó mọi quyết định, chỉ đạo của HĐTV, Chủ tịch công ty đối với hoạt động kinh doanh của DN thông qua người quản lý doanh nghiệp sẽ kịp thời và đáp ứng được nhu cầu của DN. Tăng cường chế tài, xử lý nghiêm minh đối với người đại diện chủ sở hữu, nếu những nội dung, vấn đề do mình đề xuất lên cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt không phù hợp dẫn tới DNNN kinh doanh không hiệu quả, nguồn vốn nhà nước bị thất thoát.
Luật Đầu tư 2020: Chưa khơi thông hết “điểm nghẽn” điều kiện kinh doanh
Theo Hội thảo công bố Báo cáo “Chương trình cải cách môi trường kinh doanh Việt Nam: Góc nhìn từ doanh nghiệp”, diễn ra tại Hà Nội (20/4/2021), VCCI cho biết, chương trình cắt giảm, đơn giản hoá điều kiện đầu tư kinh doanh theo Nghị quyết của Chính phủ để đạt mục tiêu cắt giảm 50%, đã đạt được kết quả đáng kể. Theo đó, tỷ lệ doanh nghiệp xin giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh có xu hướng tăng trở lại lên 52% trong năm 2019 và 59% trong năm 2020. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn khi xin giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh tiếp tục có xu hướng giảm xuống chỉ còn 32% trong năm 2020.
Dù vậy, với tỷ lệ 32% doanh nghiệp gặp khó khăn khi xin giấy chứng nhận đủ điều kiện đầu tư kinh doanh cho thấy dư địa cải cách trong lĩnh vực này vẫn còn rất lớn. Các điều kiện đầu tư kinh doanh không minh bạch, định tính, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau vẫn còn tồn tại trong nhiều văn bản pháp luật. Cũng về vấn đề này, phát biểu tại Hội thảo trên, ông Phan Đức Hiếu - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), dẫn lại bài học thực tế giấy phép con đã từng bãi bỏ (2002 – 2003) nhưng xuất hiện lại sau 10 năm. Từ đó, ông Hiếu nêu thách thức: “Chúng ta đã dễ dàng bãi bỏ 50% điều kiện đầu tư kinh doanh, nhưng để tiếp tục bãi bỏ thêm 10% điều kiện nữa là cả một vấn đề”
Một trong những nguyên nhân đó là, hoạt động cắt giảm điều kiện kinh doanh mới chỉ được tiến hành ở các văn bản cấp nghị định.
Một trong những nguyên nhân đó là, hoạt động cắt giảm điều kiện kinh doanh mới chỉ được tiến hành ở các văn bản cấp nghị định. Trong khi đó, rất nhiều điều kiện kinh doanh chưa phù hợp khác đang nằm tại Luật Đầu tư sửa đổi 2020 vẫn chưa được “đụng tới” (khoản 2 Điều 7). Chính vì giới hạn này mà theo các chuyên gia pháp lý, việc rà soát, cắt bỏ điều kiện kinh doanh chưa được triệt để.
Nhiều ngành nghề đã được các Bộ có chức năng cắt giảm, không cần “áp” điều kiện kinh doanh nhưng trong Luật này vẫn còn xác định đây là các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Cụ thể, như: Ngành “kinh doanh dịch vụ làm thủ tục hải quan” (số thứ tự 21 Phục lục IV Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện kèm theo); ngành “kinh doanh dịch vụ kế toán” (số 18 Phụ lục IV); ngành “kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế” (số 20 Phụ lục IV)…. Do đó, dù đã chỉ ra những điểm vướng, bất cập trong việc kiểm soát các ngành nghề này bằng điều kiện kinh doanh nhưng các nghị định cũng không thể giải quyết được vấn đề.
Luật Đầu thầu, Luật Nhà ở, Luật Đất đai… “đá nhau” làm chậm việc giao đất cho nhà đầu tư
Theo khoản 3 Điều 1 Luật Đấu thầu năm 2013 quy định: “Lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), dự án đầu tư có sử dụng đất” và khoản 1 Điều 1 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ quy định dự án sử dụng đất thuộc trường hợp đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư: “Dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP); và dự án đầu tư có sử dụng đất để xây dựng nhà ở thương mại; công trình thương mại, dịch vụ: công trình đa năng, tổ hợp đa năng cho mục đích kinh doanh”. Có nghĩa các dự án đầu tư có sử dụng đất bắt buộc phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
Trong khi đó tại Điều 118 Luật Đất đai năm 2013, việc đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê hoặc cho thuê mua (tức nhà ở thương mại); đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê… chỉ quy định việc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất mà không quy định trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Tương tự, tại điểm b khoản 1 Điều 119 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Điều kiện để tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử sụng đất khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất là khi “đất đã được giải phóng mặt bằng”. Trong khi đó theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật Đấu thầu 2013 và Điều 22 Luật Nhà ở 2013 quy định đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án nhà ở thương mại có sử dụng đất được thực hiện thông qua 2 hình thức: đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và đấu thầu dự án. Có nghĩa áp dụng đấu giá và đấu thầu kể cả đối với đất chưa thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Dự án đường cao tốc Bến Lức - Long Thành triển khai chậm tiến độ, theo Bộ GTVT là do chủ đầu tư chậm giải phóng mặt bằng, thiếu mặt bằng sạch bàn giao cho nhà thầu thi công…
Luật “đá” luật là nguyên nhân khiến cho nhiều địa phương lúng túng, gặp khó khăn trong việc áp dụng hai hình thức đấu giá và đấu thầu. Cùng với giá bồi thường GPMB còn bất cập là nguyên nhân dẫn tới chủ đầu tư không giao đất kịp thời cho nhà đầu tư, nhất là đối với trường hợp đất hỗn hợp gồm đất chưa thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng và đất do Nhà nước quản lý (đất sạch) khi thực hiện dự án. Hệ lụy kéo theo, nhà thầu phải gánh thiệt hại: lãng phí máy móc, nhân lực, phát sinh chi phí, chậm tiến độ công trình…Ai cũng biết lỗi thuộc về chủ đầu tư là không thể chối cãi nhưng các nhà thầu (chủ yếu là nhà thầu nội) thường lựa chọn giải pháp “ngậm bồ hòn làm ngọt”, để “mua đường dài” hoặc còn là vì mối quan hệ dích dắc với chủ đầu tư.
Báo cáo trước Quốc hội (5/2021) về lý do 6 dự án trọng điểm (gồm dự án đường cao tốc Bến Lức - Long Thành và 5 dự án đường sắt đô thị) đang triển khai chậm tiến độ; hay công tác triển khai một số dự án mới cũng còn rất chậm như dự án xây dựng nhà ga T3 Cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Cảng hàng không quốc tế Long Thành, các dự án thuộc cao tốc Bắc - Nam theo hình thức PPP... ; Bộ GTVT cho biết, nguyên nhân chủ yếu là do chủ đầu tư chậm giải phóng mặt bằng, thiếu mặt bằng sạch bàn giao cho nhà thầu thi công…
Từ những bất cập trên, theo chúng tôi, Bộ Kế hoạch & Đầu tư nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 29 Luật Đầu tư theo hướng: Chỉ áp dụng đấu giá quyền sử dụng đất đối với các DA thuộc trường hợp quỹ đất đã giải phóng mặt bằng thuộc quyền quản lý, sử dụng của Nhà nước và việc thực hiện chấp thuận chủ trương đầu tư (để quản lý dự án) thực hiện sau khi Nhà đầu tư đã trúng đấu giá quyền sử dụng đất. Tương tự, hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, chỉ áp dụng đối với các DA đã có quỹ đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của nhà nước; việc thực hiện chấp thuận chủ trương đầu tư (để quản lý dự án) thực hiện sau khi Nhà đầu tư trúng thầu dự án được lựa chọn; Theo đó, đối với tất cả các DA khác có quỹ đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của nhà đầu tư do đã hoàn thành việc nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp, đất khác (trừ đất thuộc quyền sử dụng của Nhà nước), dự án sản xuất kinh doanh phi thương mại chuyển thành dự án nhà ở, khu đô thị... thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương, giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu.
Luật Hỗ trợ DNVVN: Tiêu chí và điều kiện mập mờ chưa tạo ra động lực thúc đẩy phát triển
Tại khoản 2 Điều 3 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh”.
Cách giải thích như trên là rất trừu tượng, đặc biệt là cụm từ: “có khả năng tăng trưởng nhanh”. Thế nào là DN đó “có khả năng tăng trưởng nhanh”, hiện Luật này và kể cả Nghị định 39/2018/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều của Luật HTDNVVN cũng chưa có quy định tiêu chí cụ thể để xác định thế nào là doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo “có khả năng tăng trưởng nhanh”. Khó xác định được là đồng nghĩa với không có cơ sở để áp dụng thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với loại hình DNVVN khởi nghiệp sáng tạo (theo quy định tại Điều 16 – Điều 19).
Một bất cập khác, tại điểm b khoản 1 Điều 16 quy định điều kiện để doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được hỗ trợ về các nội dung tại khoản 2 Điều 16 (miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn, giảm tiền sử dụng đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai; miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp và phí cung cấp thông tin doanh nghiệp lần đầu; miễn phí thẩm định, phí, lệ phí cấp phép kinh doanh lần đầu đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; miễn lệ phí môn bài trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu…), là “hộ kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục ít nhất là 01 năm tính đến ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu”.
Trong khi đó trên thực tế (nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid -19 đã và đang diễn ra), số lượng hộ kinh doanh cá thể đảm bảo có duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục ít nhất 01 năm là rất ít; đa số duy trì theo phương thức trong quá trình hoạt động, hộ kinh doanh khó khăn phải tạm nghỉ một thời gian ngắn, khi có điều kiện và cơ hội kinh doanh đến thì đăng ký hoạt động lại. Vậy nên để tiếp cận được các chính sách hỗ trợ của Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 16 là rất xa vời và đó cũng là lý do vì sao các hộ kinh doanh không muốn chuyển đổi thành doanh nghiệp.
Số lượng DNNVV tiếp cận được chính sách hỗ trợ rất ít, đặc biệt là DNNVV khởi nghiệp sáng tạo
Trong năm 2020, bên cạch các gói cứu trợ kinh tế, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp chính sách thuế linh hoạt như miễn giảm, giãn thuế, phí và lệ phí, tiền thuê đất với gần 124.000 tỉ đồng, hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19. Tuy nhiên số lượng DNNVV tiếp cận được chính sách hỗ trợ rất ít, đặc biệt là DNNVV khởi nghiệp sáng tạo. Trong đó khó tiếp cận nhất là chính sách giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp theo quy định tại Nghị định 114/2020/NĐ-CP của Chính phủ ban hành hồi tháng 09/2020. Bỡi điều kiện để được giảm thuế TNDN phải nộp của kỳ tính thuế TNDN năm 2020, khi DN có tổng doanh thu năm 2020 không quá 200 tỉ đồng.
Sáng 15/6, tại Phiên họp 57 Ủy ban Thường vụ Quốc hội, báo cáo thẩm tra về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2021, Chủ nhiệm UBKT Vũ Hồng Thanh cho biết, việc triển khai chính sách các gói hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp vá các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 chưa tiếp cận được nhiều nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và khó khăn, đặc biệt là người lao động trong khu vực phi chính thức, công nhân và các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ.
Ngoài các qui định luật đang cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh nêu trên, hiện còn rất nhiều qui định bất cập khác trong các luật sau cũng cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung ngay: Luật quy hoạch, Luật doanh nghiệp, Luật đấu thầu, Luật PPP; Luật NSNN, Luật phí, lệ phí, Luật quản lý sử dụng tài sản công, Luật thuế TNDN, Luật khoáng sản, Luật bảo vệ môi trường; Luật xây dựng, Luật quy hoạch đô thị, Luật kinh doanh bất động sản; Luật giao dịch điện tử; Luật công chứng, Luật đấu giá tài sản; Luật tổ chức chính quyền địa phương; Luật Tổ chức Chính phủ…..
Theo các địa phương, các quy định trong các văn bản luật nói trên còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa thống nhất, chưa phù hợp với thực tế thuộc các lĩnh vực quan trọng, làm phát sinh những vướng mắc, khó khăn, theo đó gây ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư, sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp liên quan.
( Còn nữa…….)
Vũ Lê Minh
Thấy gì từ 3 vụ án mà cựu chủ tịch Nguyễn Đức Chung bị khởi tố...
(Pháp lý) - Thông đồng móc ngoặc giữa cán bộ có chức quyền với các đối tượng bên ngoài, giữa khu vực công và khu vực tư với các hình thức “bảo kê, sân sau”. Đi liền với sự móc nối, tiếp tay, bảo kê, sân sau là dấu hiệu tham nhũng, đưa nhận hối lộ…Đó là những điểm đặc biệt trong các vụ án mà cựu Chủ tịch TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung bị khởi tố. Qua các vụ án này, cũng cho thấy nhiều lỗ hổng pháp luật về đầu tư, xây dựng, đấu thầu, chi tiêu mua sắm công và các quy định pháp luật về kinh tế khác có liên quan. Đặc biệt cần quan tâm việc hoàn thiện cho được cơ chế pháp luật nhằm kiểm soát quyền lực “ mềm” của quan chức…
Cựu Chủ tịch Nguyễn Đức Chung khi còn đương chức
Bóng dáng những “sân sau”, doanh nghiệp thân hữu của quan chức (?)
Nghiên cứu các vụ án mà ông Nguyễn Đức Chung bị khởi tố, không khó để nhận ra bóng dáng những “sân sau”, doanh nghiệp “thân hữu” hiện rõ. Bởi, kết quả điều tra của cơ quan chức năng đã cho thấy, ông Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo, can thiệp… tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có mối quan hệ thân hữu của mình tham gia, trúng nhiều gói thầu của các thành phố.
Điển hình như trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở KH-ĐT Hà Nội và một số đơn vị liên quan (vụ án được tách ra từ vụ Nhật Cường). Kết luận điều tra của cơ quan chức năng đã chỉ ra rằng, ông Nguyễn Đức Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo Sở KH-ĐT chỉ định, dừng thực hiện gói thầu số hóa năm 2016 không đúng thẩm quyền, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu.
Theo kết luận điều tra, năm 2016 Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội tổ chức đấu thầu gói thầu số hoá hồ sơ đăng ký doanh nghiệp năm 2016 trên địa bàn. Công ty Đông Kinh không đủ năng lực nộp hồ sơ nên rủ Công ty Nhật Cường cùng tham gia.
Cụ thể, thực hiện chỉ đạo của Nguyễn Đức Chung, Nguyễn Văn Tứ chỉ đạo Nguyễn Tiến Học, Phạm Thị Kim Tuyến, Phạm Thị Thu Hường dừng thầu, hủy thầu gói thầu số hóa năm 2016 không có căn cứ. Thời điểm đó, gói thầu đang được tổ chức mời thầu theo kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, các nhà thầu tham gia đủ điều kiện dự thầu, không có nhà thầu nào kiến nghị, không có lý do điều chỉnh mục tiêu, phạm vi đầu tư, không phát hiện hành vi vi phạm trong đấu thầu...
Tiếp đó, Lãnh đạo Sở KH-ĐT Hà Nội làm theo chỉ đạo của Nguyễn Đức Chung cho Công ty Nhật Cường vào làm thí điểm công tác số hóa (đang tổ chức mời thầu, bị dừng lại) để lấy lý do sửa đổi hồ sơ mời thầu, tạo lợi thế cho nhà thầu liên danh Nhật Cường - Đông Kinh trúng thầu. Cũng theo chỉ đạo của Nguyễn Đức Chung, lãnh đạo Sở KH-ĐT Hà Nội đã sửa đổi hồ sơ mời thầu, bổ sung thêm các tiêu chí đánh giá và có hành vi thông đồng, thỏa thuận với nhà thầu, tạo lợi thế cho nhà thầu liên danh Nhật Cường - Đông Kinh.
Lãnh đạo Sở KH-ĐT cũng cho Công ty Nhật Cường vào làm thí điểm, đưa thêm yêu cầu cập nhật công nghệ số hóa đã thực hiện trong quá trình thí điểm mặc dù kết quả thí điểm không đạt yêu cầu của Sở KH-ĐT, đưa thêm yêu cầu phải cập nhật hệ thống dữ liệu dùng chung thành phố trong khi thành phố chưa có hệ thống dùng chung để sửa đổi hồ sơ thầu, tạo lợi thế cho Liên danh Nhật Cường - Đông Kinh tham gia đấu thầu.
Nguyễn Đức Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND TP đã can thiệp vào hoạt động đấu thầu, tạo điều kiện để Nhật Cường Software trúng nhiều gói thầu
Đáng chú ý, do có mối quan hệ quen biết với Bùi Quang Huy (Tổng Giám đốc Công ty Nhật Cường), được Bùi Quang Huy nhờ, ông Nguyễn Đức Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo Sở KH-ĐT chỉ định, dừng thực hiện gói thầu số hóa năm 2016 không đúng thẩm quyền, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu.
Các bị can Bùi Quang Huy, Lê Duy Tuấn đã gian lận trong việc lập Hợp đồng chứng minh khả năng, kinh nghiệm để hợp thức hóa hồ sơ năng lực tham gia dự thầu; Lê Duy Tuấn, Võ Việt Hùng thiết lập quân xanh, quân đỏ khi tham gia đấu thầu.
Đặc biệt, kết luận điều tra cũng nêu rõ ông Chung cũng đã để cho Công ty Minh Hoa do bà Nguyễn Thị Trúc Chi Hoa - vợ ông Chung làm giám đốc - ký kết hợp đồng với Công ty Nhật Cường. theo kết luận, tài liệu thu thập tại Công ty Minh Hoa, Cục Thuế Hà Nội, dữ liệu trích xuất từ hệ thống phần mềm ERP của Công ty Nhật Cường cùng lời khai của các bị can là nhân viên của Nhật Cường thể hiện "hợp đồng ký giữa công ty với Nhật Cường có dấu hiệu là hợp đồng khống".
Tuy nhiên bị can Bùi Quang Huy đang bỏ trốn, chưa ghi được lời khai nên chưa chứng minh, kết luận được ý thức chủ quan của bà Hoa trong việc ký hợp đồng là để giúp Huy hợp thức hồ sơ năng lực, tham gia đấu thầu. Vì vậy chưa đủ căn cứ xem xét, xử lý hình sự đối với hành vi của bà Nguyễn Thị Trúc Chi Hoa.
Hay như trong vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí, xảy ra tại UBND TP.Hà Nội, cũng cho thấy có bóng dáng “sân sau”, doanh nghiệp “thân hữu”.
Theo thông tin từ cơ quan điều tra, quá trình điều tra mở rộng vụ án xác định ông Nguyễn Đức Chung và ông Nguyễn Trường Giang đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, chỉ đạo Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội mua chế phẩm Redoxy-3C của Công ty Watch Water - CHLB Đức qua Công ty TNHH thương mại dịch vụ Arktic để xử lý, duy trì chất lượng hồ trên địa bàn thành phố Hà Nội trái quy định, gây thiệt hại tài sản nhà nước.
Điều đáng nói là trong vụ án này, thời điểm mà Chủ tịch UBND TP.Hà Nội Nguyễn Đức Chung chỉ đạo mua hàng theo kiểu độc quyền, Công ty ARKTIC chỉ mới được 9 tháng tuổi và chưa có kinh nghiệm gì về xử lý ô nhiễm. Công ty Arktic do Ông Đào Xuân Tấn và ông Nguyễn Đức Hạnh (con trai ông Chung) thành lập vào tháng11-2015, địa chỉ số 12 Đặng Tiến Đông, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội (địa chỉ nhà riêng ông Nguyễn Đức Chung) trước khi được chuyển nhượng cho ông Nguyễn Trường Giang và bà Nguyễn Thị Bích Hằng tháng 7-2016.
Dấu hiệu đưa nhận hối lộ
Đáng chú ý, không chỉ dễ dàng nhận diện bóng dáng của những “sân sau”, doanh nghiệp thân hữu mà trong loạt các vụ án liên quan đế ông Chung còn cho thấy những dấu hiệu rõ ràng của hành vi “đưa - nhận” hối lộ. Cụ thể:
Trong vụ án "chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước" mà Nguyễn Đức Chung là chủ mưu cầm đầu, các đồng phạm là Phạm Quang Dũng, Nguyễn Anh Ngọc, Nguyễn Hoàng Trung cho thấy, quá trình điều tra cơ quan chức năng xác định vào dịp tết Nguyên đán Âm lịch Canh Tý, vào ngày 22.1.2020, tại khu vực Bệnh viện Bạch Mai, thông qua bị can Nguyễn Hoàng Trung, bị can Phạm Quang Dũng đã nhận của Nguyễn Đức Chung 1 phong bì trong đó có 10.000 USD. Bị can Dũng đã thông qua gia đình nộp lại số tiền này.
Tuy nhiên, theo cơ quan chức năng, do chưa có điều kiện làm rõ bản chất cho và nhận 10.000 USD này nên cơ quan điều tra đã tách vụ án này để xem xét, xử lý sau.
Hay trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở KH-ĐT Hà Nội và một số đơn vị liên quan, kết quả điều tra cũng chỉ ra rằng, quá trình tổ chức đấu thầu và thực hiện các hợp đồng, Bùi Quang Huy và Lê Duy Tuấn, đại diện Liên danh Nhật Cường - Đông Kinh đã chi biếu Nguyễn Văn Tứ 300 triệu đồng, Nguyễn Tiến Học 100 triệu đồng, Phạm Thị Kim Tuyến 30 triệu đồng.
Theo kết quả điều tra, bị can Lê Duy Tuấn, Giám đốc Kinh doanh Công ty Đông Kinh khai, sau khi việc trót lọt, Bùi Quang Huy đã chỉ đạo cho Tuấn đến “biếu quà” một số lãnh đạo của Sở KH&ĐT.
Cụ thể, bị can Nguyễn Văn Tứ (cựu Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội) khai dịp Tết 2017, chính Bùi Quang Huy đã lên phòng làm việc và biếu tặng ông Tứ một chai rượu ngoại cùng 300 triệu đồng. Huy nói cho Tuấn biết đã biếu ông Tứ (thời điểm đó là Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội) số tiền 500 triệu đồng, rồi phân công cho Tuấn biếu quà các cấp dưới.
Theo chỉ đạo của Huy, Tuấn biếu Nguyễn Tiến Học (cựu Phó Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội) 100 triệu đồng, biếu Phạm Thị Kim Tuyến (cựu Trưởng phòng Đăng ký Kinh doanh) 30 triệu đồng và Phạm Thi Thu Hường (cựu Chánh Văn phòng Sở KH&ĐT Hà Nội) 5 chậu lan, tổng giá trị khoảng 25 triệu đồng…
Quá trình tố tụng, các bị can Tứ và Học hợp tác tích cực, chủ động khai báo và nộp lại số tiền thu lợi bất chính…
Ông Nguyễn Đức Chung đã chỉ đạo phải xử lý ô nhiễm bằng chất RedOxy-3C và mua độc quyền, không đấu thầu.
Những lỗ hổng pháp luật
Theo dõi những vụ án liên quan đến ông Nguyễn Đức Chung mới thấy pháp luật vẫn còn nhiều sơ hở.
Điển hình như pháp luật về đấu thầu hiện đang thiếu những quy định về cơ chế giám sát trong công tác đấu thầu, giám sát cơ quan quản lý thầu, nhà thầu… Trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở KH-ĐT Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo Sở KH-ĐT chỉ định, dừng thực hiện gói thầu số hóa năm 2016 không đúng thẩm quyền, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu tạo điều kiện để Nhật Cường Software (do ông Bùi Quang Huy – đang bị truy nã quốc tế, làm chủ) – một công ty non trẻ mới chỉ chính thức hoạt động từ năm 2016, có thể đường đường chính chính trúng các gói thầu công nghệ lớn của Hà Nội. Vậy nhưng không thấy động thái hoặc nếu có thì cũng rất yếu ớt của cơ quan chức năng trong việc “ tuýt còi” vụ việc.
Hay trong vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí, xảy ra tại UBND TP.Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung chỉ đạo Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội mua chế phẩm Redoxy-3C của Công ty Watch Water - CHLB Đức qua Công ty TNHH thương mại dịch vụ Arktic để xử lý, duy trì chất lượng hồ ở Hà Nội.
Ngoài ra, dù pháp luật về đấu thầu đã có nhiều quy định nhằm hạn chế việc nhà thầu “bán thầu”. Nhưng, đâu đó vẫn tồn tại những quy định chưa chặt chẽ tạo điều kiện cho các đối tượng “ngụy trang” dưới các hình thức thầu chính, thầu phụ, liên doanh nhà thầu… những thực chất là cò mồi, thiết lập quân xanh, quân đỏ tham gia đấu thầu, bán thầu để kiếm hoa hồng. Đây chính là kẽ hở mà các đối tượng trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở KH-ĐT Hà Nội đã lợi dụng một cách triệt để nhất.
Cụ thể: Theo thỏa thuận liên danh Nhật Cường - Đông Kinh trong hồ sơ dự thầu nộp Sở KH&ĐT ghi: Nhật Cường đảm nhận 76%, Đông Kinh 24% khối lượng công việc. Nhưng sau khi 2 bên ký hợp đồng với Sở KH&ĐT, ngày 3/1/2017, Bùi Quang Huy và Võ Việt Hùng, Giám đốc Công ty Đông Kinh ký hợp đồng về việc mua, bán dịch vụ số hóa tài liệu hồ sơ ĐKDN trên địa bàn Hà Nội năm 2016 với phạm vi công việc và yêu cầu tính năng kỹ thuật của dịch vụ số hóa tài liệu hồ sơ ĐKDN giống hợp đồng giữa Sở KH&ĐT và Liên danh Nhật Cường- Đông Kinh nêu trên, trị giá hơn 29 tỷ đồng. Sau khi nhận hơn 42 tỷ đồng từ Sở KH&ĐT, Công ty Nhật Cường đã thanh toán cho Công ty Đông Kinh hơn 29 tỷ đồng.
Câu chuyện tương tự diễn ra ở gói thầu số hóa tài liệu hồ sơ đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội năm 2017. Theo thỏa thuận liên danh Nhật Cường - Đông Kinh trong hồ sơ dự thầu nộp Sở KH&ĐT, Nhật Cường đảm nhận 76% , Đông Kinh 24% khối lượng công việc. Nhưng sau khi 2 bên ký hợp đồng với Sở KH&ĐT, ngày 25/5/2018, Trần Ngọc Ánh, Phó TGĐ Công ty Nhật Cường và Võ Việt Hùng, Giám đốc Công ty Đông Kinh ký hợp đồng kinh tế về việc mua, bán dịch vụ số hóa tài liệu hồ sơ ĐKDN trên địa bàn Hà Nội năm 2017.
Sau khi nhận hơn 16 tỷ đồng từ Sở KH&ĐT, Công ty Nhật Cường đã chuyển khoản thanh toán cho Công ty Đông Kinh đủ số tiền theo giá trị nghiệm thu là hơn 10 tỷ đồng.
Kết luận điều tra cho rằng, dù Công ty Nhật Cường tham dự thầu, trúng thầu, ký hợp đồng với Sở KH&ĐT Hà Nội, nhưng sau khi ký 2 hợp đồng, Nhật Cường đều bán lại cho Công ty Đông Kinh, hưởng lợi bất chính hơn 19 tỷ đồng.
Kết mở
Các vụ án liên quan đến Nguyễn Đức Chung cho chúng ta thấy rõ tình trạng thông đồng móc ngoặc giữa các cán bộ, công chức với các đối tượng bên ngoài, giữa khu vực công và khu vực tư với các hình thức “bảo kê, sân sau”. Sự móc nối giữa hai khu vực trong và ngoài nhà nước tạo thành chu trình khép kín, lợi dụng các khe hở của cơ chế, chính sách để hoạt động phạm tội.
Và sẽ còn nguy hiểm hơn, nếu đi liền với sự móc nối, tiếp tay, bảo kê, sân sau là tình trạng tham nhũng, hối lộ…
Tin rằng, trong những vụ án liên quan đến Nguyễn Đức Chung và các vụ đại án kinh tế hình sự khác đang được điều tra, các cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ điều tra làm rõ hành vi đưa nhận hối lộ, để xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.
Và dù các sai phạm chủ yếu tập trung vào yếu tố con người (cố ý làm trái, tha hóa, tư lợi), nhưng các cơ quan chức năng cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách pháp luật về đầu tư, xây dựng, đấu thầu, pháp luật chi tiêu mua sắm công và các quy định pháp luật về kinh tế khác có liên quan … để lấp đi những lỗ hổng mà các đối tượng có thể lợi dụng để trục lợi.
Cuối cùng, một vấn đề rất quan trọng khác, tuy không mới, nhưng chúng tôi muốn tiếp tục nêu ra ở đây, đó là cơ chế kiểm soát quyền lực, đặc biệt là cơ chế kiểm soát quyền lực “ mềm “ của quan chức đang còn nhiều bất cập, nên thời gian qua không ít quan chức đã dùng quyền lực để qua mắt, áp đặt , lấn át tập thể , cố ý làm trái phục vụ mục đích và lợi ích riêng. Do đó, tới đây cần đặc biệt quan tâm việc hoàn thiện cho được cơ chế pháp luật nhằm kiểm soát quyền lực “ mềm” của quan chức. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể ngăn chặn được các vụ đại án tham nhũng.
Văn Chiến – Vũ Thuỷ
Tiếp sức doanh nghiệp vượt qua đại dịch covid - 19: Cần mở rộng đối tượng và tăng thời gian giảm thuế VAT
(Pháp lý) - Ngay từ cuối năm 2020, rất nhiều diễn đàn, các tổ chức Hiệp hội, chuyên gia, ngành nghề đã lên tiếng kiến nghị giảm thuế. Nhưng đến nay mới chỉ được giãn, chậm nộp thuế VAT và giảm 30 % thuế TNDN. Giãn, hoãn nghĩa là chỉ được chậm nộp thuế mà không bị phạt lãi chậm nộp, chứ trước sau gì vẫn phải nộp. Như vậy không thấm vào đâu so với những gì mà hàng vạn doanh nghiệp (DN) đang phải đối đầu hiện nay. “ DN trong cơn bĩ cực”; “ DN giờ như cá nằm trên cạn”…Đó là những từ ngữ mà báo chí gần đây thay lời muốn nói của DN, đặc biệt là những DNVVN.
Nước ta đã trải qua 4 đợt dịch bệnh covid – 19 tính từ đầu năm 2020 đến nay. Nhưng đợt 4 hiện nay là nặng nề nhất, kéo dài nhất. Đã có hàng ngàn doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ sức chống đỡ. Nay lại bị bồi thêm một đợt dịch bệnh vô cùng nặng nề nữa, đến giờ DNVVN nào còn trụ được là sức đề kháng phải rất tốt.
Các DN du lịch chịu thiệt hại nặng nề nhất do dịch Covid-19.
Vậy nên khi nghe tin Bộ Tài chính có chủ trương xây dựng đồng bộ các giải pháp hỗ trợ DN về thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất…., chắc hàng vạn DN có chút nhẹ nhõm và ngóng chờ . Được biết, Bộ đề xuất một số gói hỗ trợ rất mới như: Giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV của năm 2021 đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong mọi lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn, hình thức khai thuế, nộp thuế; Giảm 30% mức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ; Miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 (02 năm chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19) đối với doanh nghiệp, tổ chức phát sinh lỗ liên tục trong các năm 2018, năm 2019, năm 2020….
Bộ Tài chính Đề xuất giảm 30% thuế TNDN, 50% thuế phải nộp đối với hộ và cá nhân kinh doanh trong mọi lĩnh vực.
1. Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2021 đối với doanh nghiệp, tổ chức như đã áp dụng cho năm 2020;
2. Giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV của năm 2021 đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong mọi lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn, hình thức khai thuế, nộp thuế;
3. Giảm 30% mức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ;
4. Miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 (02 năm chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19) đối với doanh nghiệp, tổ chức phát sinh lỗ liên tục trong các năm 2018, năm 2019, năm 2020.
Theo Tổng cục Thống kê, trong số 2.164,5 nghìn tỉ đồng vốn đầu tư xã hội năm 2020, có đến 972,2 nghìn tỉ đồng đến từ khối kinh tế ngoài nhà nước, trong khi khối FDI chỉ chiếm 463,3 nghìn tỉ đồng. Còn trong quý I năm nay, vốn đầu tư toàn xã hội đạt 507,6 nghìn tỉ đồng, riêng khu vực ngoài nhà nước chiếm đến hơn 57%, khu vực Nhà nước chiếm 24% và khu vực FDI chỉ chiếm gần 19%.
Bên cạnh đó, các số liệu thống kê đều cho thấy khu vực kinh tế tư nhân đang tạo ra khoảng 40% GDP, 30% ngân sách nhà nước và thu hút đến 85% lực lượng lao động cả nước. Những con số trên cho thấy kinh tế tư nhân đang ngày càng trở thành “lực kéo” quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Bàn về vai trò của DNTN, tại Hội thảo “Đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam”, phát biểu tại Hội thảo, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh: Vai trò, vị thế của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định và thể hiện rõ nét thông qua những đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 42-43% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội...
Đặc biệt lực lượng DNTN đã góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi diện mạo đất nước, tạo dấu ấn, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; hình thành nhiều thương hiệu có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Do đó, cần phải tiếp tục có những cơ chế, chính sách để doanh nghiệp tư nhân trụ vững thời gian này và phát triển mạnh hơn nữa trong giai đoạn hậu COVID-19.
Còn các DNVVN ? DNVVN có vai trò rất lớn trong quá trình tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
DNVVN tạo công ăn việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần giảm thất nghiệp; Doanh nghiệp nhỏ và vừa giữ vai trò quan trọng trong việc ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ccung cấp cho thị trường nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, tạo ra nhiều sự lựa chọn, đáp ứng được mọi nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy sức tiêu thụ của nền kinh tế. Vì thế mức độ đóng góp của các DNVVN vào tổng sản lượng của nền kinh tế là rất lớn.
Phát biểu tại “Lễ tôn vinh doanh nhân, doanh nghiệp Thăng Long năm 2020”, ông Chu Ngọc Anh, Chủ tịch UBND TP Hà Nội đánh giá: Mặc dù bị tác động bởi dịch COVID-19, nhưng kinh tế Thủ đô vẫn duy trì sự tăng trưởng. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Với tầm quan trọng như vậy của khối DNTN và DNVVN đối với nền kinh tế và xã hội, vậy nên, còn chần chừ gì nữa mà không nhanh chóng có những chính sách giảm thuế kịp thời để khoan sức cho DN. DN được cứu sống, sau dịch bệnh, họ khỏe lại, họ sẽ đóng góp và bù đắp cho nền kinh tế. Còn DN mà hao hụt và mất đi, thì ai sẽ nuôi ngân sách…Mệnh đề này ai cũng hiểu, đặc biệt là các cơ quan quản lý.
Doanh nghiệp kỳ vọng gì cho chính sách giảm thuế sắp tới của Bộ Tài chính ?
Tuy nhiên giảm thuế TNDN, giảm thuế VAT…, với mức giảm thế nào và đối tượng, thời gian giảm ra sao…? cho thực chất, thực sự hà hơi tiếp sức được cho DN, thì cần tính kĩ .
Theo chúng tôi, cần tăng thời gian giảm và đối tượng được giảm thuế VAT. Thay vì đề xuất giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV của năm 2021, kiến nghị giảm cho cả năm 2022; Thay vì đề xuất giảm 30% mức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ , kiến nghị giảm 50 % thuế VAT cho tất cả các nhóm lĩnh vực dịch vụ.,,,
Và cần thiết mở rộng đối tượng giảm thuế VAT, bởi không chỉ các doanh nghiệp mà các tổ chức, đơn vị sự nghiệp không hưởng ngân sách hiện nay cũng rất khó khăn ( như nhiều cơ quan báo chí chẳng hạn). Các cơ quan báo chí hiện nay kê khai và nộp các loại thuế ( TNDN, VAT) như doanh nghiệp, nhưng các chính sách hỗ trợ DN thì lại không có tên báo chí. Ngoài ra, nếu trong trường hợp dịch bệnh còn kéo dài thì thời gian giảm thuế cần tăng lên vài năm. Vì khi dịch bệnh giảm và được ngăn chặn thì sau đó, DN vực dậy và phục hồi được không thể chỉ trong một năm.
Đồng thời việc ban hành các giải pháp hỗ trợ cần đạt được các mục tiêu, yêu cầu như: đảm bảo các chính sách hỗ trợ phải nhanh, lược giảm tối đa các thủ tục và điều kiện nhằm giúp doanh nghiệp ứng phó với ảnh hưởng của dịch COVID-19, sớm khôi phục sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Kiến nghị tăng thời gian giảm và đối tượng được giảm thuế VAT. Thay vì đề xuất giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV của năm 2021, kiến nghị giảm cho cả năm 2022; Thay vì đề xuất giảm 30% mức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ , kiến nghị giảm 50 % thuế VAT cho tất cả các nhóm lĩnh vực dịch vụ.,,,
Và cần thiết mở rộng đối tượng giảm thuế VAT, bởi không chỉ các doanh nghiệp mà các tổ chức, đơn vị sự nghiệp không hưởng ngân sách hiện nay cũng rất khó khăn ( như nhiều cơ quan báo chí chẳng hạn). Các cơ quan báo chí hiện nay phải nộp các loại thuế ( TNDN, VAT) như doanh nghiệp, nhưng các chính sách hỗ trợ DN thì lại không có tên báo chí.
Phúc Trang
Nguy cơ dịch tại Hà Nội rất cao: Cần kiên quyết xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân vi phạm quy định phòng, chống dịch
(Pháp lý) – Trên cơ sở đánh giá tình hình thực tế, Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội chiều ngày 20.8 đã đồng ý chủ trương tiếp tục thực hiện giãn cách xã hội toàn TP đến 6 giờ, ngày 6/9 để phòng chống dịch Covid-19. Phó Bí thư Thành uỷ Nguyễn Văn Phong đánh giá, dù thành phố đạt được nhiều kết quả quan trọng trong công tác phòng chống dịch , nhưng nguy cơ dịch vẫn rất cao.
Trước nguy cơ lây lan dịch bệnh tại Hà Nội vẫn ở mức cao và khó lường, xét nghiệm diện rộng và xét nghiệm sàng lọc ho, sốt tại cộng đồng vẫn ghi nhận thêm các ca mắc mới, chuyên gia y tế và pháp luật cũng cho rằng Hà Nội cần tiếp tục giãn cách, thực hiện nghiêm “5K” - biện pháp vô cùng quan trọng để cắt đứt nguồn lây. Đồng thời, chính quyền và các lực lượng chức năng cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát tại chỗ và lưu động, kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
Trưa 20/8, Sở Y tế Hà Nội cho biết Hà Nội ghi nhận thêm 51 ca mắc mới, trong đó 23 ca tại cộng đồng.
Nguy cơ lây lan dịch bệnh vẫn ở mức cao và khó lường
Trưa 20/8, Sở Y tế Hà Nội cho biết Hà Nội ghi nhận thêm 51 ca mắc mới, trong đó 23 ca tại cộng đồng. Đáng chú ý đã ghi nhận chùm ca bệnh tại chung cư HH4C, Linh Đàm với 13 trường hợp. Đây là 13 bệnh nhân sống tại khu vực nguy cơ cao, ngày 18.8 được lấy mẫu xét nghiệm sàng lọc diện khu vực nguy cơ (lấy mẫu gộp) nghi ngờ dương tính, ngày 19.8 được lấy lại mẫu đơn, kết quả xét nghiệm dương tính.
8 ca dương tính tại cộng đồng khác được lấy mẫu xét nghiệm sàng lọc theo diện khu vực nguy cơ, bao gồm 5 ca bệnh tại phường Quang Trung, Hà Đông và 3 ca tại Khương Mai, Thanh Xuân.
Trong nhận định mới nhất về tình hình dịch bệnh trên địa bàn, Thường trực Thành ủy Hà Nội cho rằng, nguy cơ lây lan dịch bệnh vẫn ở mức cao và khó lường. Việc xét nghiệm diện rộng và xét nghiệm sàng lọc ho, sốt tại cộng đồng vẫn ghi nhận thêm các ca mắc mới, có thể còn có các trường hợp F0 khác trong cộng đồng chưa được bóc tách hết. Trong các khu phong tỏa vẫn xuất hiện nhiều F0 do truy vết không kịp hoặc thực hiện “chặt ngoài, lỏng trong”.
Thường trực Thành ủy yêu cầu các lực lượng chức năng tiếp tục siết chặt việc người dân ra đường không có lý do chính đáng, hợp lý như đã nêu trong Chỉ thị số 17 của Chủ tịch UBND TP. Các quận, huyện, thị ủy chỉ đạo bố trí, nâng cao hiệu quả thực chất của các chốt kiểm soát phòng, chống dịch ngay tại các ngõ, phố, thôn, xóm.
Phát huy tốt vai trò các tổ Covid-19 cộng đồng, các tổ phản ứng nhanh từ quận, huyện, thị xã đến các xã, phường, thị trấn, thôn, tổ dân phố, kiểm soát chặt cả bên ngoài và bên trong, nhất là các khu vực có F0 đã phong tỏa, tránh tình trạng “chặt ngoài, lỏng trong”. Các nơi phong tỏa phải kiểm soát nghiêm, chặt hơn, bố trí lực lượng, phương tiện cung ứng lương thực, thực phẩm, hàng hóa cho từng gia đình, từng người dân để Nhân dân yên tâm ở tại chỗ, không ra ngoài, phòng ngừa lây lan dịch trong khu phong tỏa.
Thường trực Thành uỷ Hà Nội yêu cầu phải tiếp tục triển khai hiệu quả việc xét nghiệm diện rộng, trong đó lưu ý việc xác định các khu vực nguy cơ cao bảo đảm chính xác, ưu tiên xét nghiệm các “vùng đỏ”, các đối tượng nguy cơ cao như: Lực lượng tuyến đầu, người lao động tham gia các chuỗi cung ứng hàng hóa, vận tải, dịch vụ, công nhân lao động khu công nghiệp, chế xuất, giáo viên, học sinh, cán bộ, nhân viên các trung tâm bảo trợ xã hội, trung tâm cai nghiện...
Giãn cách mạnh mẽ, thực hiện nghiêm “5K” là biện pháp vô cùng quan trọng để cắt đứt nguồn lây.
PGS.TS. Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), Cố vấn cao cấp của Trung tâm Đáp ứng khẩn cấp sự kiện y tế công cộng Việt Nam đánh giá, không để dịch bùng lên là thành công bước đầu, thể hiện sự nỗ lực cố gắng của hệ thống chính trị cũng như nhân dân Thủ đô.
“Ngay lập tức không thể đưa số ca bệnh trở về không nhưng hạn chế, cắt đứt được nguồn lây là kết quả rõ nét mà Thành phố đã đạt được trong công tác phòng dịch thời gian qua”, PGS.TS. Trần Đắc Phu nhận xét.
Trước tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, Hà Nội đã khẩn trương triển khai lấy mẫu xét nghiệm diện rộng có chỉ định. Đặc biệt, việc xét nghiệm sớm, diện rộng các trường hợp ho sốt ở các vùng nguy cơ là cách làm hiệu quả của Hà Nội, cho thấy năng lực tốt của y tế cơ sở.
Cùng với kiểm soát chặt chẽ người ra đường, Hà Nội cũng đã và đang triển khai hiệu quả các “vùng xanh”, phát huy được vai trò của tự quản, giám sát được người ra vào từng ngõ, ngách.
Tuy nhiên, PGS.TS Trần Đắc Phu cho rằng, nguy cơ dịch bệnh của Hà Nội vẫn rất cao, qua sàng lọc vẫn có các F0 rải rác, lẩn khuất trong cộng đồng. Do đó, việc giãn cách, thực hiện nghiêm “5K” là biện pháp vô cùng quan trọng để cắt đứt nguồn lây. Bên cạnh đó, cũng cần có biện pháp ngăn chặn nguy cơ lây nhiễm từ các chuỗi như ngân hàng, bưu điện, đơn vị cung cấp hàng hóa vào siêu thị, shipper…
PGS.TS Trần Đắc Phu cho rằng, Hà Nội cần tiếp tục triển khai việc xét nghiệm diện rộng có chỉ định, tập trung vào đối tượng, địa bàn nguy cơ.
“Nhưng cần xác định rằng xét nghiệm chỉ là thời điểm hiện tại, còn khi mở cửa, di biến động ra vào Hà Nội tăng thì vẫn có khả năng bùng dịch. Vì vậy cần triển khai mạnh mẽ hơn việc giãn cách, “5K”, quét mã QR ở các cơ quan, đơn vị, siêu thị, điểm công cộng kết hợp với đẩy mạnh tiêm vaccine và nên tiêm cả đối tượng người già, người có bệnh nền. Đặc biệt, phải thực hiện nghiêm không được để tụ tập đông người tại các điểm tiêm, điểm lấy mẫu xét nghiệm”, PGS.TS Trần Đắc Phu khuyến nghị.
Hà Nội đang tiếp tục xét nghiệm đánh giá nguy cơ, "bóc vét" các F0 ngoài cộng đồng. Ngoài ra, việc xét nghiệm này cũng giúp thành phố đánh giá nguy cơ để quyết định hiệu quả của việc giãn cách xã hội ra sao. "Tôi cho rằng, nếu tiếp tục thực hiện quyết liệt thì Hà Nội sẽ kiểm soát được dịch. Hơn nữa, chống dịch phải từ ý thức của người dân. Nếu thành phố quyết liệt bao nhiêu mà người dân không có ý thức thì cũng không đi đến thành công" - PGS-TS Trần Đắc Phu nói.
Lãnh đạo CDC Hà Nội cũng thừa nhận qua đánh giá hơn 3 tuần giãn cách vừa qua, có thể nói dịch đã "ngấm" tương đối sâu trong cộng đồng, việc quét sạch F0 ngay lúc này là rất khó. Bên cạnh đó, số ca nhiễm hàng ngày giảm nhưng ở mức rất nhẹ, không thể khẳng định đây là thành quả bền vững.
"Về mặt chuyên môn, chúng tôi nhận định thành phố cần tiếp tục giãn cách và ít nhất là qua ngày 2/9 để đảm bảo an toàn cho người dân. Đây là thời điểm nguy cơ rất cao, người dân đổ ra đường đi chơi dịp lễ thì toàn bộ thành quả chống dịch có thể đổ vỡ hoàn toàn", ông Tuấn cho biết.
Phải xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm giãn cách và phòng chống dịch
Dưới góc độ pháp lý, trao đổi với Phóng viên Pháp lý, Luật sư Diệp Năng Bình – Trưởng Văn phòng Luật sư Tinh Thông Luật (Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh) cho biết, Hà Nội là trái tim của cả nước, trái tim có khỏe mạnh thì cơ thể mới khỏe mạnh. Do đó, Luật sư đánh giá cao và hoàn toàn ủng hộ các biện pháp mà Hà Nội đã áp dụng thời gian qua cho dù Hà Nội mới chỉ bắt đầu tăng mạnh các biện pháp giãn cách vào ngày 19/7. Việc áp dụng các biện pháp mạnh này đã góp phần giúp Hà Nội kiểm soát và hạn chế thấp nhất sự lây lan bùng phát dịch bệnh.
Cũng theo Luật sư Bình, thời gian qua, với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị cùng sự ủng hộ, tin tưởng và tinh thần chủ động phòng, chống dịch của người dân Việt Nam, công tác phòng chống dịch COVID -19 của nước ta đã đạt được những kết quả bước đầu tích cực, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao.
Luật sư Diệp Năng Bình – Trưởng Văn phòng Luật sư Tinh Thông Luật (Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh)
Nhưng tiếc thay, trong bối cảnh toàn bộ hệ thống, cơ quan chức năng và người dân chung tay, đồng lòng chống dịch thì vẫn còn không ít người dân thiếu ý thức, trách nhiệm trong công tác phòng chống dịch, cố tình tìm cách “lách luật” để ra đường. Có không ít những chốt trực chỉ “chặt” ở một thời điểm, hoặc nơi chặt, nơi buông, khiến người dân xuất hiện tâm lý chủ quan, xuất hiện tình trạng “chặt ngoài, lỏng trong”...
Thậm chí đã xuất hiện các hành vi sử dụng giấy phép “luồng xanh” giả, xét nghiệm giả, chống đối lực lượng chức năng đang làm nhiệm vụ… Những hành vi này là rất nguy hiểm cho xã hội.
Có thể thấy vẫn có các hiện tượng xem thường pháp luật, xem thường công tác phòng chống dịch, nguyên nhân một phần là chế tài về hành chính cũng như hình sự của chúng ta quá nhẹ, không đủ sức răn đe và phòng ngừa chung. Hoặc chúng ta xử lý chưa nghiêm minh quyết liệt , nhất là cá biệt có một số cán bộ, công chức, người có địa vị trong xã hội nhưng lại vi phạm qui định giãn cách, thậm chí vi phạm các qui định phòng chống dịch. Tới đây cần làm mạnh, xử lý nghiêm, thậm chí khởi tố hình sự để răn đe, LS Bình kiến nghị.
Theo luật sư Bình, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội đã ban hành Chỉ thị 05-CT/TU ngày 30/7/2021 về tăng cường trách nhiệm của hệ thống chính trị và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19. Theo đó, về cơ bản, việc triển khai thực hiện tốt các chỉ đạo về công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 có chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, số ca mắc trong cộng đồng vẫn cao và chưa rõ nguồn lây, nhiều ca không có biểu hiện dịch tễ; việc thực hiện Chỉ thị còn chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả; nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc nhưng cũng có địa phương, cơ quan, đơn vị còn lơ là, chủ quan. Một số cấp ủy, chính quyền cơ sở còn lúng túng, chưa chủ động, chưa quyết liệt và thiếu sáng tạo, nhất là việc huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc chưa thực chất, chưa hiệu quả; nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân chưa chấp hành nghiêm yêu cầu giãn cách... Chính vì vậy người đứng đầu các cấp cần tuyên truyền cho cấp dưới của mình nhận thức sâu sắc hơn nữa ý nghĩa, tầm quan trọng về giãn cách xã hội để tập trung phòng, chống dịch COVID-19; xác định rõ đây là sứ mệnh, là nhiệm vụ chính trị ưu tiên số 1 để bảo vệ an toàn, tính mạng Nhân dân, bảo vệ cuộc sống yên bình và tương lai phát triển của Thủ đô, của đất nước. Đồng thời phải xử lý nghiêm minh các trường hợp lơ là trong công tác phòng chống dich. Luật sư Diệp Năng Bình kiến nghị.
Hiện nay chúng ta đã có một hệ thống chính trị xuyên suốt từ Thành phố đến cơ sở cùng vào cuộc một cách thực chất, chủ động, quyết liệt, tập trung cao nhất triển khai đầy đủ, nghiêm túc, đồng bộ các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 theo Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời người dân Thủ đô cũng đã rất nghiêm túc, đồng lòng quyết tâm chiến thắng dịch bệnh với nhiều biện pháp và mô hình như ngõ xanh, chung cư xanh...
Tuy nhiên, chúng ta cần phát huy hơn nữa hoạt động của Tổ phòng, chống COVID-19 cộng đồng; huy động tối đa sự tham gia của lực lượng dân quân tự vệ, dân phòng, đội tự quản, các đoàn viên, hội viên, nhất là đoàn viên thanh niên tình nguyện, cựu chiến binh,… để vừa phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, vừa giảm tải cho lực lượng chính quy, lực lượng tuyến đầu trong công tác kiểm soát dịch bệnh….
Cần tăng cường trách nhiệm tập thể cấp ủy, chính quyền các cấp gắn với nêu cao trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Các địa phương chủ động làm việc cụ thể với từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn, yêu cầu xây dựng kế hoạch làm việc, kế hoạch sản xuất kinh doanh, bảo đảm thực hiện đúng quy định về giãn cách và số lượng người đi làm...
Đồng thời phát huy trách nhiệm nêu gương của các cơ quan này với cơ sở; tăng cường kiểm tra, kiểm soát tại chỗ và lưu động, kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
Bên cạnh đó, phải quan tâm chăm lo đời sống của Nhân dân, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn, đối tượng yếu thế trong xã hội; khẩn trương triển khai kịp thời các chính sách hỗ trợ cho người dân và tiếp tục rà soát, đề xuất Thành phố ban hành bổ sung các chính sách hỗ trợ đối với lực lượng tham gia phòng, chống dịch và người dân, nhất là các đối tượng khó khăn để không ai bị bỏ lại phía sau. Đồng thời, không ngừng tuyên truyền các chính sách, các biện pháp để người dân nâng cao ý thức hơn nữa trong công tác phòng chống dịch bệnh.
Đà Nẵng có thể truy cứu hình sự người trốn tránh xét nghiệm
Liên quan đến tình hình dịch Covid-19, ông Nguyễn Văn Quảng, Bí thư Tp. Đà Nẵng, nhận định, quận Hải Châu là địa bàn có dịch diễn biến phức tạp. Ông đề nghị ngành y tế gọi và người dân có liên quan đến chợ đầu mối Hoà Cường phải tự giác đi xét nghiệm. Thậm chí, đối với những người cố tình trốn tránh, né xét nghiệm, cần xử nghiêm, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự.
Xuân Trường
Về những ý kiến tâm huyết, thẳng thắn và hành động cương quyết của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
(Pháp Lý) - Quốc hội khóa XV vừa có tổng kết rút kinh nghiệm kỳ họp đầu tiên; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ( UBTVQH) khóa XV cũng vừa kết thúc phiên họp thứ hai. Đây là những kỳ họp, phiên họp đặc biệt với những trọng trách đặc biệt trong bối cảnh cũng rất đặc biệt. Qua đó, cử tri chứng kiến quyết tâm đổi mới xây dựng một Quốc hội liêm chính và hành động. Đặc biệt qua theo dõi các phiên họp gần đây, cử tri rất hài lòng và kì vọng về những ý kiến thẳng thắn, hành động cương quyết của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ.
Ông Vương Đình Huệ tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch Quốc hội khóa XV
Nhìn lại những năm qua, Việt Nam chúng ta đã có những thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt là phát triển kinh tế nhờ đường lối đúng của Đảng, sự vận hành hợp lý của Chính phủ và sự ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp đồng thời là nỗ lực của toàn dân.
Đặc biệt năm 2021, khi đại dịch covid vẫn đang bùng phát thì "lò" chống tham nhũng vẫn không ngừng cháy. Việc xử lý những vụ việc tiêu cực trong lĩnh vực này không chỉ tránh thất thoát tài sản mà còn mang lại niềm tin cho nhân dân, đặc biệt là niềm tin của những người đang trên tuyến đầu chống dịch.
Ngay những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ XV, Chính phủ và Thủ tướng Phạm Minh Chính đã phải đối mặt với một " lực cản " vô cùng khó khăn, đó là sự bùng phát trở lại của đại dịch covid. Nhiều tháng nay, Chính Phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành đã có nhiều hành động quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành các địa phương chống dịch, đồng thời có các giải pháp chưa từng có tiền lệ tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp.
Quốc hội khóa XV vì thế cũng cần phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ. Quốc hội cần hành động cương quyết hơn và có những Nghị quyết , quyết sách kịp thời hơn, sát thực tế hơn để đáp ứng mong mỏi của cử tri cả nước và đồng hành cùng Chính Phủ thực hiện mục tiêu kép vừa phát triển kinh tế vừa chống dịch. Song Quốc hội cũng phải tập trung sửa đổi bổ sung hoàn thiện lấp kín các kẽ hở trong các đạo luật phục vụ phát triển kinh tế và phòng chống tiêu cực tham nhũng quyết liệt hơn nữa.
“ Chúng ta yêu cầu Chính phủ phải liêm chính thì bản thân Quốc hội cũng phải liêm chính, từng đại biểu Quốc hội cũng phải liêm chính, chứ không phải tạo ra những thao túng về chính sách”, Chủ tịch QH Vương Đình Huệ nhấn mạnh.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu tại cuộc họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, chiều 6/8. Tại phiên họp này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết đồng ý cho Chính phủ áp dụng 4 nội dung khác luật hiện hành trong nhóm giải pháp cấp bách phòng, chống Covid-19.
Từng ĐBQH phải liêm chính, đừng để tham nhũng chính sách xảy ra ở nghị trường Quốc hội
Một Quốc hội liêm chính để giám sát được Chính phủ liêm chính; một Quốc hội chủ động, dẫn dắt thay vì “bắc nước sôi chờ gạo” là tinh thần được Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh kì từ khi giữ cương vị trọng trách người đứng đầu Quốc hội.
Tại phiên họp thứ 57 của UBTVQH, khi bàn về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021 - 2022, Chủ tịch QH đã thẳng thắn cho rằng việc lên chương trình vẫn làm theo kiểu “ăn đong”, “chập chững”, “đến hẹn lại lên, có cái gì trình cái đấy” và đề nghị cần phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật. “Tinh thần lập pháp phải chủ động hơn, vai trò QH phải có dẫn dắt, phải có giao nhiệm vụ”, ông nhấn mạnh. “Cương quyết không chấp nhận bất cứ dự án luật nào không nằm trong chương trình và không chuẩn bị kỹ lưỡng” là điều được Chủ tịch QH nhắc đi nhắc lại.
“Bây giờ đừng có để tham nhũng chính sách xảy ra trong nghị trường của QH. Tôi nói thẳng việc như thế. Chúng ta yêu cầu Chính phủ phải liêm chính thì bản thân QH cũng phải liêm chính, từng ĐBQH cũng phải liêm chính, chứ không phải tạo ra những thao túng về chính sách, ngồi đây ngả nghiêng vấn đề nọ, vấn đề kia, quên hết chức năng, nhiệm vụ”. Ông cũng nhấn mạnh ông muốn quán triệt để có sự thống nhất thực hiện. “Đừng có nói là vận động đồng chí nọ, đồng chí kia đến ngồi đưa thêm cái nọ, cái kia vào. Dứt khoát là không. Việc này phải gương mẫu từ ủy ban của QH.
Chúng ta yêu cầu Chính phủ phải liêm chính thì bản thân Quốc hội cũng phải liêm chính, từng đại biểu Quốc hội cũng phải liêm chính, chứ không phải tạo ra những thao túng về chính sách (Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ)
Giám sát là khâu then chốt, sẽ giám sát đến nơi, đến chốn, truy tận cùng sự việc.
Ngày 22/7, trả lời báo chí về trọng tâm hoạt động và những đổi mới của Quốc hội khóa XV, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết Quốc hội khóa XV đã xác định các nhiệm vụ trọng tâm để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội trên tất cả các lĩnh vực, từ lập pháp, giám sát cho tới quyết định các vấn đề quan trọng của Quốc hội.
Về công tác lập pháp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh Quốc hội khóa XV sẽ “siết chặt kỷ cương lập pháp” thông qua việc gắn trách nhiệm với từng cơ quan, người đứng đầu; đồng thời xem xét đâu là vấn đề vướng mắc, chồng chéo, bất cập trong quy định của pháp luật để sửa đổi bổ sung nhằm mục tiêu kiến tạo, phát triển đất nước. “Hiện Ủy ban Thường vụ Quốc hội đang xây dựng đề án định hướng xây dựng hệ thống pháp luật trong cả nhiệm kỳ để tăng tính chủ động, dẫn dắt, tránh tình trạng “bắc nước chờ gạo người”, ông cho hay.
Về giám sát, Chủ tịch Quốc hội khẳng định Quốc hội khóa XV coi đây là khâu then chốt, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. “Quốc hội sẽ lựa chọn những vấn đề liên quan mật thiết tới sinh kế người dân, những vấn đề trúng, đúng để giám sát và giám sát đến nơi, đến chốn, truy tận cùng sự việc, xác định trách nhiệm giải trình của tập thể, cá nhân, đồng thời nêu kiến nghị xác đáng. Như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh, phải coi trọng giám sát thực hiện kiến nghị của giám sát”, ông khẳng định và cho biết sẽ không để tình trạng đưa ra kiến nghị mà không biết tình hình thực hiện thế nào. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng cho hay trong 5 năm tới, Quốc hội sẽ chú trọng giám sát ban hành văn bản pháp luật, tổ chức thực thi pháp luật vì “khâu tổ chức thực hiện hiện nay vẫn là khâu yếu”.
“Quốc hội sẽ lựa chọn những vấn đề liên quan mật thiết tới sinh kế người dân, những vấn đề trúng, đúng để giám sát và giám sát đến nơi, đến chốn, truy tận cùng sự việc, xác định trách nhiệm giải trình của tập thể, cá nhân, đồng thời nêu kiến nghị xác đáng. Chủ tịch QH Vương Đình Huệ khẳng định sẽ không để tình trạng đưa ra kiến nghị mà không biết tình hình thực hiện thế nào.
Chính phủ phải làm tường minh mức đóng và mức chi ở hai Quĩ BHXH và BHTN
Sáng 17/8, Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về tình hình thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội năm 2020.
Theo báo cáo của Chính phủ, tổng số kết dư quỹ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp đến nay ước đạt trên 935.100 tỷ đồng; trong đó ba quỹ thành phần kết dư chuyển sang năm 2021 lần lượt là: Quỹ Ốm đau, thai sản gần 12.800 tỷ đồng; Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp hơn 53.700 tỷ đồng; Quỹ Hưu trí, tử tuất trên 789.100 tỷ đồng. Riêng Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp hơn 89.100 tỷ đồng.
Trưởng Ban Công tác Đại biểu Nguyễn Thị Thanh đánh giá, kết dư 4 loại quỹ nêu trên quá lớn. Đơn cử như Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, trong thời điểm Covid-19, thiếu công ăn việc làm, mà số kết dư lên tới trên 89.000 tỷ đồng.
Theo bà Thanh, Quốc hội đã có quyết định tạo hành lang pháp lý với cơ chế cấp bách, đặc biệt cho Chính phủ phòng chống dịch, "vậy nên chăng Quốc hội, Thường vụ Quốc hội xem xét quyết định một vấn đề cụ thể liên quan đến ngân sách, như dùng 89.000 tỷ đồng kết dư Quỹ bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ cho các tỉnh có đông công nhân lao động, theo hướng có thể mua vaccine cho công nhân, hoặc hỗ trợ để đảm bảo cuộc sống cho người lao động trong điều kiện không có việc làm, thu nhập".
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ : Vì tính chất quan trọng của các quỹ BHXH và BHTN, do đó "không chỉ xem xét ở Thường vụ, tới đây sẽ bố trí để Quốc hội thảo luận".
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng cho rằng, kết dư các Quỹ bảo hiểm ngắn hạn quá lớn, trong khi về nguyên tắc, hàng năm chỉ giữ lại 10% dự phòng. "Như vậy hoàn toàn không bình thường. Đề nghị Chính phủ rà soát kỹ, báo cáo chi tiết các mục chi theo cơ cấu chi", ông nói, lấy ví dụ chi Quỹ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, Luật An toàn vệ sinh lao động điều 42 quy định 8 mục chi, vậy từng mục chi là bao nhiêu?
Lãnh đạo Quốc hội băn khoăn, số kết dư như nêu trên phải chăng do quy định mức đóng quá lớn? Nếu đóng quá lớn sẽ tạo gánh nặng cho người sử dụng lao động là các doanh nghiệp và cả ngân sách nhà nước (vì nhà nước cũng phải đóng khoảng 19-20%). "Hay là do chi quá ít, người lao động tuy đóng nhưng không được hưởng nên tồn đọng nhiều? Hoặc là cả hai, nghĩa là mức đóng cao mà mức chi thì ít? Chính phủ phải làm tường minh chỗ này", ông Huệ nhấn mạnh. Chủ tịch QH cũng cho biết UBTVQH thống nhất sẽ đưa báo cáo quản lý và sử dụng Quỹ BHXH và báo cáo về quản lý, sử dụng Quỹ Bảo hiểm y tế năm 2020 ra thảo luận tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội
Về đề xuất dùng số kết dư để chi cho một số mục đích, ví dụ mua vaccine, Chủ tịch Quốc hội nói "không đồng tình" vì "không ai được xâm phạm Quỹ này dù chỉ một xu". Đây là quỹ đóng - hưởng chứ không phải là ngân sách Nhà nước. Người nào đóng thì được hưởng và không đóng sẽ không được hưởng. Vì tính chất quan trọng của các quỹ trên, ông Huệ nói "không chỉ xem xét ở Thường vụ, tới đây sẽ bố trí để Quốc hội thảo luận".
Giải quyết khiếu nại tố cáo của dân: Phải truy đến cùng trách nhiệm tổ chức, cá nhân thì công tác này mới chuyển biến
Phát biểu tại phiên họp UBTV QH ngày 17/ 8 vừa qua, Phó chủ tịch QH Nguyễn Khắc Định lưu ý QH không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là của Chính phủ. “QH chỉ chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi đơn, tổng hợp lại để có kiến nghị, đề xuất với Chính phủ và các cơ quan chính phủ”, ông nêu. Bên cạnh đó, ông Định đề nghị báo cáo của Ban Dân nguyện có thể gửi hằng tháng, song, việc UBTVQH thảo luận thì nên 2 - 3 tháng tổ chức một lần.
Tuy nhiên, Chủ tịch QH Vương Đình Huệ không đồng tình ý kiến này. “Mấy trăm vụ việc kéo dài, ai giải quyết, giám sát việc này thế nào? Đơn thư chuyển về mà QH chỉ chuyển đơn đi thì có ý nghĩa gì không?”, Chủ tịch QH nêu và cho biết kể từ khi ông về QH tháng 4.2021, chưa thấy các cơ quan của QH giải quyết được vụ việc gì, chưa thấy đặt ra, xem xét giải quyết bất cứ một đơn thư khiếu nại, tố cáo nào của công dân.
Tại phiên họp thứ hai của UBTVQH ( ngày 18.8), Chủ tịch Quốc hội yêu cầu phải 'truy đến cùng' khi xử lý đơn thư
Nhấn mạnh QH, UBTVQH phải có trách nhiệm trong việc giải quyết các vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, Chủ tịch QH Vương Đình Huệ đề nghị phải bàn để làm sao công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chuyển biến lên. “Các đồng chí vẫn còn kiểu quyền anh, quyền tôi. Hằng tháng, UBTVQH phải họp giải quyết cái này, không thì sinh ra cơ quan dân cử làm cái gì?”, Chủ tịch QH nói và nhấn mạnh Chính phủ giải quyết khiếu nại tố cáo nhưng QH, cơ quan QH phải giám sát việc đó.
Chủ tịch QH cũng dẫn chứng các vụ việc nổi cộm, phức tạp khi ông còn là Bí thư Thành ủy Hà Nội như xử lý sai phạm tại công trình 8B Lê Trực hay bãi rác Nam Sơn (H.Sóc Sơn) thì không thấy QH, UBTVQH “vào cuộc cùng chúng tôi”. “Chúng tôi đổ mồ hôi, sôi nước mắt xử lý vụ việc ở Sóc Sơn cũng không thấy vai trò của QH, TVQH. Đó có phải là vụ việc nổi cộm phức tạp không? Chúng ta cứ hay nói lý thuyết nhiều”, Chủ tịch QH dẫn chứng và đề nghị hằng tháng, Ban Dân nguyện cần có báo cáo UBTVQH về công tác này. “Mỗi tháng đặt ra 7 - 8 vụ việc, vấn đề bức xúc, nổi cộm, làm đến nơi đến chốn, quy rõ trách nhiệm tổ chức, tập thể, cá nhân đi, xem có chuyển động không? Phải truy đến cùng trách nhiệm thì công tác này mới chuyển biến; nhân dân, cử tri mới đặt niềm tin vào QH và cơ quan dân cử”, Chủ tịch QH nói.
“Truy đến cùng trách nhiệm thì công tác này mới chuyển biến, nhân dân, cử tri mới đặt niềm tin vào Quốc hội và cơ quan dân cử”, ông Huệ khẳng định. Đồng thời, đưa việc xem xét báo cáo tình hình giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri, kết quả tiếp công dân, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo vào các phiên họp thường kỳ hằng tháng của UBTVQH.
Ông Huệ lưu ý, cần đề nghị Chính phủ, VKSND tối cáo, TAND tối cao báo báo cáo tình hình kết quả rà soát giải quyết đối với các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài và trên phạm vi toàn quốc để có biện pháp giải quyết. Rồi 500 vụ việc phức tạp mà Bộ Công an đã có báo cáo thì Thanh tra Chính phủ, Chính phủ giải quyết như thế nào.
“Năm 2022, Thường vụ Quốc hội sẽ giám sát chuyên đề về vấn đề về giải quyết khiếu nại tố cáo . Phải làm đến nơi đến chốn không người dân bảo mình vô cảm”, ông Huệ nói và chỉ rõ, trong công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, tiếp công dân, có nơi làm tốt, tích cực nhưng cũng có nơi buông lỏng, thiếu trách nhiệm, vô cảm với dân.
Thay lời kết
Nhiều tháng nay, nước ta đang trải qua những tháng ngày rất khó khăn khi phải tập trung các nguồn lực phòng chống dịch bệnh covid, chăm lo cho người dân không ai bị bỏ lại phía sau, song vẫn phải duy trì sản xuất cho các DN. Trước thực tế này, Quốc hội, UBTVQH và tân Chủ tịch QH Vương Đình Huệ đã có những phiên họp đặc biệt, Nghị quyết đặc biệt , sát cánh, tạo điều kiện về cơ sở pháp lý và chính sách cho Chính phủ áp dụng phòng chống dịch bệnh.
Có thể thấy rằng, qua kì họp đầu tiên của QH khóa XV, qua các phiên họp của UBTV QH tháng 7 và tháng 8 vừa qua đã đưa ra những Nghị quyết, quyết định hết sức nhanh nhạy và kịp thời. Đặc biệt với những ý kiến thẳng thắn cùng những hành động cương quyết của chủ tịch QH Vương Đình Huệ, chúng ta có cơ sở để tin tưởng vào những đổi thay của Quốc hội tới đây – Quốc hội liêm chính và hành động vì Nhân Dân phục vụ. Như đúng lời phát biểu nhậm chức của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ trước Quốc hội và đồng bào cử tri: "Nguyện sẽ cống hiến hết sức mình vì mục tiêu tối thượng là phụng sự lợi ích của Quốc gia, dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân".
Lê Phúc
Cuộc chiến chống COVID-19: Cần sách lược lâu dài cho sản xuất
Dịch bệnh khả năng còn kéo dài nên cần xác định vừa chống dịch vừa phải duy trì sản xuất, hoạt động kinh tế đến mức tối đa có thể được. Trong chiến tranh, cha anh chúng ta đã thực hành "tay cày, tay súng", vừa chiến đấu, vừa sản xuất, không vì có chiến tranh mà dừng mọi hoạt động sản xuất. Sản xuất tốt cũng để có thêm điều kiện chống dịch tốt hơn.
Cuộc chiến chống COVID-19 ở nước ta đang ở một thời khắc quyết định, khi những diễn biến 3 tháng qua cho thấy đây là cuộc chiến không thể vượt qua nhanh chóng, dễ dàng trong khi những tác động đối với hoạt động kinh tế và doanh nghiệp đang ngày càng thấy rõ.
Doanh nghiệp thật sự lao đao
Trong tuần trước, Hiệp hội Dệt may, Hiệp hội Da giầy và Túi xách, Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam và Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TPHCM đã ký chung một bản kiến nghị gửi lên Thủ tướng, phản ánh những khó khăn của việc áp dụng phương thức "3 tại chỗ" theo yêu cầu của Bộ Y tế và các địa phương.
Theo bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giầy và Túi xách Việt Nam, phần lớn doanh nghiệp thuộc 4 hiệp hội này đều có quy mô sử dụng hàng nghìn đến vài chục nghìn lao động. Tổng kim ngạch xuất khẩu của 4 ngành trên đạt hơn 160 tỷ USD/năm, chiếm gần 60% kim ngạch XK cả nước, góp phần nuôi sống hơn 8 triệu lao động. Bên cạnh đó, có khoảng 12,5 triệu người gián tiếp tham gia vào chuỗi cung ứng phục vụ các ngành trên.
Nếu như năm 2020, xuất khẩu Việt Nam đã bứt tốc nhờ việc tận dụng các đơn hàng dịch chuyển từ các khu vực bị đóng cửa sản xuất do dịch bệnh như Đông Âu, Nam Mỹ thì nay nguy cơ xảy ra tình trạng ngược lại đang hiện hữu. Đã có dấu hiệu cho thấy nhiều khách hàng dệt may, da giầy ngưng đơn hàng mới hoặc xem xét điều chuyển đơn hàng sang khu vực khác.
Thực tế, khi các tỉnh phía nam đưa ra yêu cầu "3 tại chỗ", phần lớn doanh nghiệp không đáp ứng được đều phải đóng cửa. Một số ít đáp ứng được thì bây giờ lại đứng trước nguy cơ trở thành ổ dịch, khiến các doanh nghiệp khác đang áp dụng "3 tại chỗ" nhìn vào đó cũng phải băn khoăn, cân nhắc.
"Nếu ngừng sản xuất, doanh nghiệp sẽ mất lao động, sau này sẽ rất khó tuyển dụng trở lại. Nếu tiếp tục sản xuất, doanh nghiệp vừa giữ chân được lao động, vừa cùng chung tay lo phúc lợi cho người lao động, giảm bớt áp lực cho Chính phủ và địa phương", bà Xuân nhấn mạnh.
Từ một góc độ khác, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 7 tháng đầu năm, cả nước có gần 80.000 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng hơn 25% so với cùng kỳ năm 2020.
Việc áp dụng các biện pháp chặt chẽ nhằm hạn chế người di chuyển là cần thiết để chặn đường lây lan của dịch bệnh. Tuy nhiên, các biện pháp giãn cách xã hội, hạn chế lưu thông, vận chuyển hàng hóa của các địa phương không thống nhất, gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện, từ đó có nguy cơ làm đứt gãy chuỗi cung ứng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điển hình là các mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất bị nhiều địa phương đánh giá không phải là "hàng hóa thiết yếu", do đó không được vận chuyển, lưu thông, gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của rất nhiều doanh nghiệp;
Ngay cả khi Chính phủ và các bộ, ngành ban hành các biện pháp tháo gỡ, thì có nơi, có lúc các điểm chốt tại địa phương vẫn không thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương, khiến cho nhiều doanh nghiệp bức xúc.
Trong công văn mới đây gửi các địa phương, Bộ Công Thương khẳng định "việc duy trì liên tục các chuỗi giá trị và cung ứng của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là cực kỳ quan trọng trong ngắn hạn cũng như đảm bảo phát triển kinh tế đất nước trong dài hạn."
Nếu phải đóng cửa nửa tháng, một tháng, doanh nghiệp còn có thể chịu đựng để vượt qua. Nhưng nếu phải đóng cửa lâu hơn, doanh nghiệp sẽ rất khó khăn vượt qua điểm gãy, kể cả khi dịch qua đi, cũng sẽ rất khó phục hồi.
Liều vaccine nào cho nền kinh tế?
Doanh nghiệp là thành phần duy trì và tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, trong mọi tình huống, luôn cần cân nhắc đến việc đảm bảo duy trì hoạt động của doanh nghiệp.
Nói cách khác, các doanh nghiệp, nhà máy sản xuất, cơ sở dịch vụ cũng cần được bảo vệ, thông qua những biện pháp làm giảm thiểu tác động, thiệt hại từ các thử thách, trong trường hợp này là các biện pháp phòng chống dịch COVID-19.
Trong khi đó, diễn biến dịch bệnh những tháng qua ở các tỉnh phía nam cho thấy tính chất của đợt dịch này khác với những lần trước. Với biến chủng Delta, cơ chế lây truyền của virus dường như cũng khác. Không phải là sự lây truyền thông qua giọt bắn như SARS-CoV-2 đời đầu mà dường như loại virus này có thể tồn tại lơ lửng trong không khí và do vậy phát tán xa hơn, rộng hơn. Điều đó cũng có nghĩa là việc giữ khoảng cách 2 mét là chưa đủ để an toàn và rất nhiều người nhiễm sẽ không rõ nguồn lây vì truy vết không hề thấy tiếp xúc với F0 hay cả F1.
Tại cuộc họp của Chính phủ với các địa phương sáng 30/7, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc nhở, ngay cả sau khi tiêm vaccine chúng ta cũng không được chủ quan. Tiêm vaccine không có nghĩa là sẽ miễn nhiễm với virus, mà người được tiêm vaccine vẫn có thể nhiễm, nhưng vaccine giúp giảm nhẹ triệu chứng và giảm tỉ lệ tử vong. Người được tiêm vaccine khi nhiễm virus vẫn có thể là nguồn lây nhiễm cho người khác, nếu người bị lây thuộc nhóm nguy cơ cao (lớn tuổi, có bệnh nền) và chưa tiêm vaccine thì khả năng người đó trở bệnh nặng vẫn rất lớn.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trong chuyến đi thực tế vừa qua cũng nhận định dịch đang thâm nhập rất rộng và sâu ở các địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An và thời gian dập dịch phải tính bằng tháng.
Điều này cho thấy tính chất phức tạp cuộc chiến chống COVID-19 lần này và khả năng bước ra khỏi cuộc chiến này không thể nhanh chóng như những đợt dịch trước.
Nếu dịch còn kéo dài mà toàn bộ hoạt động sản xuất vẫn đình trệ thì hậu quả cho nền kinh tế và xã hội rất nghiêm trọng. Nên phải tìm ra cách chung sống với dịch, sản xuất ngay cả khi có dịch.
Do vậy, nền kinh tế cũng cần được tiêm vaccine, mà vaccine ở đây không gì khác là chính sách, biện pháp nhất quán từ Trung ương đến địa phương nhằm động viên, hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động trong điều kiện dịch bệnh. Trong thời gian vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất quyết liệt cho việc này và doanh nghiệp, người dân cảm nhận được rõ sự quan tâm, chia sẻ.
Cần “trường kỳ tay cày, tay súng”
Trong thời điểm quyết định, việc đưa ra một cách tiếp cận mới, một sách lược phù hợp sẽ giúp quá trình phòng chống dịch hiệu quả hơn, từ cả góc độ y tế và kinh tế.
Vì dịch bệnh còn khả năng kéo dài nên cần xác định vừa chống dịch vừa phải duy trì sản xuất, hoạt động kinh tế đến mức tối đa có thể được.
Trong chiến tranh, cha anh chúng ta đã thực hành "tay cày, tay súng", khi máy bay địch đến thì cầm súng, khi ngơi ra lại tập trung vào sản xuất, không vì có chiến tranh mà dừng mọi hoạt động sản xuất.
Thay vì yêu cầu tất cả các doanh nghiệp phải thực hiện "3 tại chỗ" hoặc đóng cửa, có thể yêu cầu các doanh nghiệp giảm số lượng công nhân tập trung tại nhà máy, bố trí quy trình sản xuất giãn cách tối đa có thể, không tiếp xúc giữa các tổ, đội và tăng cường các biện pháp phòng hộ cá nhân. Trong trường hợp một bộ phận sản xuất có ca nhiễm, chỉ ca nhiễm đó và các đối tượng liên quan phải cách ly, các bộ phận khác trong doanh nghiệp vẫn được tiếp tục làm việc, trừ khi số lượng ca nhiễm đã trở nên mất kiểm soát thì mới đóng cửa hoàn toàn doanh nghiệp.
Đề cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng, giao cho các hiệp hội phối hợp với địa phương giám sát hoạt động của các doanh nghiệp hội viên để đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về giãn cách.
Xác định đúng vai trò của các doanh nghiệp và người lao động trong vận tải và logistics, những người tạo nên huyết mạch của cuộc sống và nền kinh tế, đảm bảo hàng hóa lưu thông phục vụ người dân cũng như cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ hàng hóa kịp thời cho doanh nghiệp. Từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngành này hoạt động tương tự các doanh nghiệp sản xuất.
Phòng chống COVID-19 là một cuộc diễn tập lớn. Vì vậy, ngay cả sau này khi COVID-19 không còn là mối đe dọa thường trực, thì những gì rút ra từ sách lược hôm nay vẫn sẽ là kinh nghiệm quý báu khi nền kinh tế đối mặt với những thử thách khắc nghiệt khác trong tương lai.
Theo baochinhphu.vn
Nguồn bài viết: http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Cuoc-chien-chong-COVID19-Can-sach-luoc-lau-dai-cho-san-xuat/441071.vgp
'Đại dịch COVID-19 tác động nặng nề đến an ninh con người'
“Đại dịch COVID-19 tác động nặng nề đến an ninh con người, Việt Nam đề nghị các Nghị viện AIPA thúc đẩy chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về phòng chống đại dịch, kiểm soát lây lan dịch bệnh, cũng như các giải pháp phục hồi kinh tế sau đại dịch”, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Hải Hà trả lời phóng viên.
Chiều 20/8, trao đổi với báo chí trước Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA-42), Phó Chủ tịch thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết, AIPA-42 thể hiện quyết tâm, đồng hành cùng ASEAN trong nỗ lực khống chế đại dịch COVID-19, vượt qua những khó khăn để phục hồi kinh tế.
Theo ông Mẫn, hơn lúc nào hết, AIPA cần đồng hành, sát cánh cùng ASEAN thúc đẩy thực hiện các sáng kiến về: Quỹ ứng phó COVID-19, kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp, lập quy trình ứng phó dịch bệnh, đặc biệt là việc triển khai kế hoạch chung của ASEAN về mua vắc xin, hỗ trợ người dân và thúc đẩy năng lực để chủ động về vắc xin ở khu vực.
Thông tin về chương trình nghị sự, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Hải Hà cho biết, Đoàn Đại biểu Quốc hội Việt Nam gồm 15 đại biểu Quốc hội, sẽ tham gia nhiều các hoạt động. Tại AIPA-42, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ sẽ có bài phát biểu quan trọng, trong đó ghi nhận những nỗ lực của ASEAN và các quốc gia thành viên trong kiểm soát đại dịch COVID-19. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cũng sẽ có thông điệp chào mừng Đại hội đồng AIPA 42.
Tại Ủy ban Chính trị, ông Hà cho biết, đoàn Việt Nam sẽ tham gia đóng góp ý kiến vào 4 dự thảo nghị quyết, phát biểu một số nội dung về hợp tác an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu ở Việt Nam và trong ASEAN, thúc đẩy an ninh con người, thúc đẩy ngoại giao nghị viện và nêu một số đề xuất tăng cường hợp tác AIPA- ASEAN trong lĩnh vực này.
Liên quan đến Nghị quyết Tăng cường an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu hướng tới một không gian mạng tự cường trong ASEAN, đoàn Việt Nam dự kiến đề xuất thành lập các cơ chế hợp tác khu vực qua kênh nghị viện, chia sẻ kinh nghiệm trong hoàn thiện chính sách, giám sát triển khai an toàn an ninh mạng và các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ chống lại đại dịch.
Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Hải Hà
Về Nghị quyết Thúc đẩy an ninh con người trong lĩnh vực kỹ thuật số bao trùm cho ASEAN, Đoàn Việt Nam tham gia: Khuyến nghị thúc đẩy hiểu biết chung về khái niệm và cách tiếp cận an ninh con người, trên cơ sở cần đảm bảo tuân thủ Hiến chương ASEAN, Tuyên bố ASEAN về nhân quyền và các văn bản khác có liên quan.
“Đại dịch COVID-19 tác động nặng nề đến an ninh con người, Việt Nam đề nghị các Nghị viện AIPA thúc đẩy chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về phòng chống đại dịch, kiểm soát lây lan dịch bệnh, cũng như các giải pháp phục hồi kinh tế sau đại dịch.
Những chia sẻ dữ liệu và công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực này cũng góp phần bảo đảm an ninh con người. Trong đó Việt Nam cũng có thể chia sẻ các kinh nghiệm trong việc áp dụng các giải pháp công nghệ thông tin phục vụ truy vết và cảnh báo, quản lý giãn cách, quản lý tiêm chủng...”, ông Hà cho hay.
Tại Ủy ban Kinh tế, đoàn Việt Nam sẽ tham gia đóng góp ý kiến vào 2 dự thảo nghị quyết trong chương trình nghị sự: Nghị quyết về “Thúc đẩy ASEAN số có tính bao trùm nhằm nâng cao năng lực cho doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ, vừa và tăng cường hội nhập kinh tế ASEAN” và Nghị quyết thứ hai về “Phục hồi kinh tế sau đại dịch: Hợp tác du lịch trong ASEAN”. Trong đó dự kiến bổ sung cơ chế “bong bóng du lịch”, qua đó kêu gọi các nước thành viên tạo hành lang xanh, bắt đầu mở cửa biên giới trở lại tới các địa điểm đã an toàn.
Đại hội đồng được tổ chức theo hình thức trực tuyến, từ ngày 23 –25/8 với chủ đề: “Phát triển quan hệ đối tác nghị viện trong lĩnh vực kỹ thuật số bao trùm hướng tới Cộng đồng ASEAN năm 2025”.
Theo tienphong.vn
Nguồn bài viết: https://tienphong.vn/dai-dich-covid-19-tac-dong-nang-ne-den-an-ninh-con-nguoi-post1367841.tpo
Cần làm gì trước làn sóng doanh nghiệp nhỏ và vừa phá sản?
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) bao gồm các doanh nghiệp siêu nhỏ là một phần rất quan trọng của nhiều nền kinh tế trong vai trò tạo ra việc làm và tăng trưởng kinh tế. Vì dịch Covid-19, rất nhiều doanh nghiệp bị rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính (financial distress) hay bị mất khả năng thanh toán (insolvency). Ở một số nền kinh tế, nhờ có sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ mà phần lớn các doanh nghiệp này không phải sống dở chết dở với các thủ tục phá sản. Còn các DNNVV ở Việt Nam nếu bị mất khả năng thanh toán thì sao?
Bức tranh với gam màu xám
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, bảy tháng đầu năm 2021 cả nước có gần 79.700 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể. So với cùng kỳ năm 2020 thì con số này đã tăng 25,5% và gần 86% trong số này là tạm ngừng hoặc ngừng hoạt động chờ giải thể.
Trước đó bức tranh doanh nghiệp ngừng hoạt động của năm 2020 đã bắt đầu bị tô xám nhiều do dịch Covid-19. Số liệu từ Sách trắng doanh nghiệp 2021 của Bộ Kế hoạch và Đầu cho biết có 110.700 doanh nghiệp rơi vào tình cảnh như đề cập ở trên, tăng 13,9% so với năm 2019.
Các trung tâm kinh tế lớn như TPHCM, Hà Nội, Đà Nẵng trong năm 2020 đều có trên 1.000 doanh nghiệp giải thể, nhiều nhất là TPHCM với 5.920 doanh nghiệp, tăng 15% so với năm trước đó. Bên cạnh đó, 63/63 địa phương có số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong năm 2020 tăng so với năm 2019, trong số này có nhiều địa phương tăng một cách đáng quan ngại như TPHCM tăng 76,9%, Hà Nội tăng 60,6%, Đà Nẵng tăng 70,1%, Hải Phòng tăng 64,8% và đặc biệt Khánh Hòa tăng 137,1%.
Tình hình DNNVV gặp khó khăn còn lan rộng và trầm trọng hơn với việc giãn cách xã hội kéo dài ở một số địa phương hiện nay, đặc biệt là TPHCM. Doanh thu bị giảm mạnh trong khi nhiều chi phí vẫn phải gánh chịu khiến cho không ít doanh nghiệp ngày càng sát với ngưỡng bị mất khả năng thanh toán. Có doanh nghiệp chọn giải pháp tạm ngừng hoạt động, có doanh nghiệp chọn giải thể, nhưng cũng có doanh nghiệp mong muốn được hỗ trợ để tiếp tục hoạt động để vượt qua giai đoạn khó khăn tạm thời.
Vậy chính sách có thể làm gì?
Tình hình doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn còn lan rộng và trầm trọng hơn với việc giãn cách xã hội kéo dài ở một số địa phương hiện nay. Ảnh: THÀNH HOA.
Cần giải pháp nhanh, gọn, và đơn giản
Ngay cả ở các nền kinh tế phát triển, mặc dù đã có quy định về bảo hộ phá sản nhưng các quy trình và thủ tục vẫn bị chỉ trích là không hề phù hợp với các DNNVV, hay nói thẳng ra là được ban hành dành cho các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Chẳng hạn các DNNVV thường không đủ nguồn lực để thuê luật sư, chi trả các chi phí pháp lý, và quan trọng hơn là không đủ thời gian để tìm được nguồn tài chính cho việc tái cấu trúc.
Chính vì vậy đã có nhiều khuyến nghị trên thế giới về việc cần có riêng các quy định về bảo hộ phá sản cho các DNNVV. Với những người chủ doanh nghiệp, và ngay cả các chủ nợ, một khung pháp lý riêng cho các DNNVV giúp các doanh nghiệp này sớm thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán, hay thậm chí kết thúc nhanh thủ tục phá sản, có thể giúp chủ doanh nghiệp nhanh chóng có cơ hội thứ hai để làm lại từ đầu.
Gần đây, tổ chức OECD và Ngân hàng Thế giới đã có nhiều thảo luận và hướng dẫn về việc hỗ trợ DNNVV có hệ thống cảnh báo sớm về mất khả năng thanh toán, tạo cơ hội thứ hai cho chủ doanh nghiệp hay các thỏa thuận bên ngoài tòa án (OCWs - Out of Court Workouts) liên quan đến vấn đề phá sản của doanh nghiệp. Theo đó, các chính sách theo hướng khuyến khích doanh nghiệp và các chủ nợ đàm phán, tìm được tiếng nói chung với nhau trước khi tìm sự phân định của tòa án. Mục đích chính là cả hai bên cùng đạt được lợi ích: chủ nợ không bị mất vốn cho vay và doanh nghiệp có thể hồi phục trở lại.
Cú sốc dịch Covid-19 khiến cho nhiều doanh nghiệp lâm vào tình cảnh khó khăn nhưng mức độ và cách thức hỗ trợ cũng cần có sự phân loại khác nhau. Chẳng hạn có thể chia doanh nghiệp thành ba nhóm: bị kiệt quệ tài chính nhưng còn khả năng phục hồi, bị mất khả năng thanh toán nhưng còn khả năng phục hồi, và bị mất khả năng thanh toán đồng thời không có khả năng phục hồi. Với những doanh nghiệp bị kiệt quệ tài chính thì cần hỗ trợ thanh khoản nhanh và kịp thời. Với những doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán nhưng còn khả năng phục hồi thì cần có chương trình tái cấu trúc, thường tiếp theo việc hỗ trợ thanh khoản trước đó. Còn đối với trường hợp không có khả năng phục hồi thì cần thực hiện phá sản và thanh lý.
Với Việt Nam, mặc dù không có quy định cụ thể về bảo hộ phá sản nhưng Luật Phá sản cũng có một phần quy định về “phục hồi hoạt động kinh doanh” ở chương VII. Tuy nhiên, thực tế hầu như không doanh nghiệp nào áp dụng được vì khó có sự đồng thuận ở hội nghị chủ nợ, và các quy định chưa có hiệu lực bảo vệ doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thực hiện tái cấu trúc và phục hồi.
Xác suất rất cao là trong tình hình giãn cách xã hội kéo dài, và có thể kéo dài thêm thì sẽ có nhiều DNNVV bị rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính, hay mất khả năng thanh toán. Nếu các khoản hỗ trợ thanh khoản không được hiệu quả như đã từng trong năm 2020 thì chỉ còn trông chờ vào việc tái cấu trúc nợ của các DNNVV, còn không thì chỉ còn cách tạm dừng hoạt động hay giải thể.
Về lâu dài, dịch Covid-19 rồi cũng sẽ được kiểm soát nhưng chu kỳ thịnh suy của DNNNV vẫn sẽ tiếp tục. Do đó, Chính phủ cần có những chính sách để khi doanh nghiệp không may rơi vào tình cảnh mất khả năng thanh toán thì chủ doanh nghiệp còn có khả năng phục hồi, hay cơ hội thứ hai để làm lại từ đầu. Muốn vậy, các chính sách cần hướng đến sự nhanh, gọn, và đơn giản, phù hợp với nhóm doanh nghiệp này thay vì là quy định chung cho tất cả các doanh nghiệp.
Theo doanhnghiephoinhap.vn
Nguồn bài viết: https://doanhnghiephoinhap.vn/lam-gi-khi-lan-song-doanh-nghiep-nho-va-vua-pha-san.html