Doanh nghiệp cần biết: Khái niệm "Hợp đồng điện tử, giá trị pháp lý và ưu điểm nổi trội
Hợp đồng điện tử giúp các doanh nghiệp tiết kiệm tới 90% thời gian và 85% chi phí trong nền kinh tế số hiện nay. Vậy hợp đồng điện tử là gì, có đảm bảo tính pháp lý không?
Về tính bảo mật trong trọng tài
Tính bảo mật là một trong những ưu điểm chính nổi trội và là thuộc tính cần thiết của trọng tài, là lý do quan trọng để các bên tranh chấp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, làm cho trọng tài thương mại trở thành phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trong đầu tư kinh doanh quốc tế.
Những vấn đề pháp lý về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, Doanh nghiệp cần quan tâm
( Pháp Lý). Thực tiễn, hoạt động nhượng quyền rất phát triển, đã và đang được các chủ thể trên thế giới thực hiện một cách thường xuyên. Tại Việt Nam, mô hình kinh doanh này mới phát triển mạnh mẽ một vài năm trở lại gần đây khi những lợi ích to lớn mà mô hình này mang lại. Tuy nhiên, để hoạt động này phát triển một cách có hiệu quả thì cần có hành lang pháp lý vững chắc và ổn định.
Chặn gian lận khấu trừ, hoàn thuế GTGT: Kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc quản lý và hạn chế gian lận hoàn thuế GTGT cho thấy mỗi nước đều có phương thức quản lý thuế khác nhau. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm hữu ích cho Việt Nam trong ngăn chặn gian lận khấu trừ, hoàn thuế GTGT trong thời gian tới.
Thu hồi tài sản bị chiếm đoạt: Kinh nghiệm rút ra từ một số vụ án kinh tế, tham nhũng
(Pháp lý) - Trong nhiều vụ án lớn – đặc biệt những vụ án thuộc diện theo dõi của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉ lệ tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt được kê biên, thu hồi ngày càng nhiều. Nghiên cứu các vụ án này, chúng ta rút ra được những bài học kinh nghiệm quí trong công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt.
Góp vốn kinh doanh bằng nhãn hiệu, sáng chế cần lưu ý những gì?
Trước thời đại công nghệ, khoa học ngày càng phát triển, tài sản góp vốn không chỉ tập trung vào tài sản hữu hình mà còn cả tài sản vô hình như nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế công nghiệp.
Kinh nghiệm quốc tế về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế
( Pháp Lý). Công khai, minh bạch thông tin là yêu cầu cơ bản bảo đảm sức khoẻ của doanh nghiệp, nhất là tập đoàn kinh tế. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới chỉ ra rằng, nơi nào có công khai, minh bạch thông tin thì ở nơi đó tập đoàn kinh tế phát triển bền vững. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi đề cập đến kinh nghiệm về công khai, minh bạch thông tin của Liên hợp quốc, của một số nước trên thế giới và khả năng áp dụng ở Việt Nam.
Pháp luật về giám sát thị trường chứng khoán trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
(Pháp lý) – Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam gần đây phát hiện nhiều vụ thao túng, làm giá. Không chỉ vậy, lợi dụng mạng xã hội, một số đối tượng đã phát tán những thông tin chưa có kiểm chứng, tin giả mạo gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động của TTCK và gây thiệt hại cho nhà đầu tư, đồng thời gây khó khăn cho các cơ quan quản lý trong việc phát hiện và xử lý. Điều này đặt ra yêu cầu đối với cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu và triển khai nhiều giải pháp mạnh mẽ hơn để giám sát TTCK và nâng cao tính minh bạch của thị trường chứng khoán.
Pháp luật Hợp đồng của Trung Quốc và Đức trước tác động của đại dịch và kinh nghiệm cho Việt Nam
(Pháp lý) - Một trong những hiện tượng đáng chú ý năm qua là việc đại dịch COVID-19 ảnh hưởng nặng nề đến quá trình thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể trong hợp đồng. Để hiểu rõ bản chất pháp lý của hiện tượng này, bài viết nghiên cứu sau đây của nhóm tác giả ( sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội) - Chu Minh Anh (MSSV 433326) , Phạm Ngọc Ánh ( MSSV 433308) , Nguyễn Tống Bảo Minh ( MSSV 433311) sẽ thông tin đến độc giả cách tiếp cận của pháp luật Trung Quốc và Đức trước tác động của các đại dịch, từ đó nêu ra kinh nghiệm cho pháp luật hợp đồng của Việt Nam.
Pháp luật hợp đồng của Trung Quốc dưới tác động của đại dịch
Kể từ khi khái niệm đại dịch bắt đầu được sử dụng rộng rãi vào đầu thế kỷ XX, Trung Quốc luôn là một trong số những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ đại dịch. Có thể nói, dưới sự tác động của ba đại dịch vừa qua trong đầu thế kỷ XXI là SARS, H1N1 và COVID-19, pháp luật hợp đồng Trung Quốc đã có những thay đổi mang tính hệ thống.
Trong bối cảnh đại dịch SARS năm 2003 bùng phát, pháp luật hợp đồng Trung Quốc mới chỉ quy định về sự kiện bất khả kháng chứ chưa có quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Điều 117 Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999 đã quy định về việc miễn trách nhiệm cho bên không thể thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng do sự kiện bất khả kháng và cũng đưa ra khái niệm sự kiện bất khả kháng với những đặc điểm pháp lý là “các sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước, không thể ngăn chặn và không thể khắc phục”.
Việc mới chỉ quy định về sự kiện bất khả kháng trong Luật Hợp đồng năm 1999 đã khiến cho quan điểm chủ đạo của các Tòa án Trung Quốc trong thời kỳ này là nhìn nhận SARS 2003 như một sự kiện bất khả kháng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng dưới sự ảnh hưởng của đại dịch. Điều này có thể khiến cho việc thực hiện hợp đồng mới chỉ gặp khó khăn do sự ảnh hưởng của đại dịch không thể được giải quyết một cách chính xác.
Tới năm 2009 trước bối cảnh đại dịch cúm H1N1 bắt đầu bùng phát, thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản mới chính thức được quy định trong pháp luật hợp đồng Trung Quốc tại Hướng dẫn số 02 ngày 24/04/2009 của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc về một số vấn đề trong thi hành Luật Hợp đồng. Tại Điều 26, hoàn cảnh thay đổi cơ bản đã được định nghĩa là “sự thay đổi hoàn cảnh khách quan sau khi giao kết hợp đồng mà sự thay đổi đó lớn đến mức các bên không thể thấy khi giao kết hợp đồng, không thuộc trường hợp rủi ro thương mại do sự kiện bất khả kháng và việc tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới một bên hoặc không thể khiến đạt được mục đích của hợp đồng”.
Tuy nhiên về cơ chế giải quyết thì pháp luật Trung Quốc mới chỉ cho các bên quyền được yêu cầu Tòa án sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng mà chưa cho họ quyền đàm phán lại hợp đồng.
Hiện nay dưới sự tác động của đại dịch COVID-19, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn, trong đó quan trọng nhất là Hướng dẫn số 1 ngày 16/04/2020 về COVID-19 và Hướng dẫn số 2 ngày 15/05/2020 về COVID-19 của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc. Thông qua hai văn bản này, Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc đã đưa ra quan điểm mới trong việc nhìn nhận đại dịch và cũng đồng thời đưa ra những quy phạm nhằm giảm thiểu sự ảnh hưởng của COVID-19 tới quan hệ hợp đồng, cụ thể:
Thứ nhất, đưa ra quan điểm nhìn nhận đại dịch dưới góc độ pháp lý
Trung Quốc đã có sự thay đổi rõ rệt về quan điểm nhìn nhận đại dịch so với năm 2003, theo đó trong bối cảnh COVID-19 bùng phát, đại dịch vừa có thể được coi là sự kiện bất khả kháng lẫn hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Theo quan điểm này, học thuyết về sự kiện bất khả kháng và học thuyết về hoàn cảnh thay đổi cơ bản không loại trừ lẫn nhau, một sự kiện vừa có thể được coi là sự kiện bất khả kháng cũng như là hoàn cảnh thay đổi cơ bản tùy vào từng trường hợp cụ thể.[2]
Thứ hai, quy định chi tiết, bổ sung quy định về sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Về sự kiện bất khả kháng, Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc đã quy định chi tiết hơn rằng quy định về sự kiện bất khả kháng sẽ chỉ được áp dụng khi đại dịch hoặc biện pháp phòng, kiểm soát dịch trực tiếp khiến cho không thể thực hiện được hợp đồng. Bên cạnh đó, đối với hoàn cảnh thay đổi cơ bản, hai văn bản trên đã bổ sung quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng nhằm khắc phục những thiếu sót của Hướng dẫn số 2 năm 2009 về thi hành Luật Hợp đồng.
Thứ ba, đưa ra những biện pháp đối với các hợp đồng cụ thể nhằm giảm thiểu sự ảnh hưởng của COVID-19
Nhìn chung, các quy phạm trong hai văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc đều hướng tới nhằm duy trì quan hệ hợp đồng trong bối cảnh đại dịch thông qua việc khuyến khích các bên sửa đổi và hạn chế việc chấm dứt hợp đồng vì khó khăn trong việc thực hiện do sự ảnh hưởng của COVID-19 với các biện pháp phòng, kiểm soát dịch.
Từ những phân tích trên, có thể thấy pháp luật hợp đồng Trung Quốc dưới sự tác động của COVID-19 đã có những sự thay đổi theo chiều hướng duy trì sự ổn định của quan hệ dân sự, từ đó giảm thiểu sự ảnh hưởng của đại dịch tới nền kinh tế, xã hội. Sự thay đổi này chủ yếu thông qua các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc – những văn bản được coi là luật thứ cấp tại Trung Quốc.[4]
Pháp luật hợp đồng của Cộng hòa Liên bang Đức dưới tác động của đại dịch
Chỉ tính riêng đại dịch COVID-19, nước Đức đã bị tác động và ảnh hưởng rất nhiều. Trước tiên, Bộ luật dân sự Đức không có định nghĩa cụ thể về “sự kiện bất khả kháng”. Đối chiếu với Đạo luật trách nhiệm pháp lý của Đức (Haftpflichtgesetz) sự kiện bất khả kháng là: “Một sự kiện nằm ngoài quy trình kinh doanh thông thường gây ra một cách khách quan bởi tự nhiên hoặc do hành động của các bên thứ ba, không thể lường trước được theo tiêu chuẩn về sự hiểu biết và kinh nghiệm của con người, không thể bị ngăn chặn hoặc làm cho vô hại bằng các phương tiện kinh tế được, ngay cả khi hết sức thận trọng dự trù một cách hợp lý, và điều đó không xảy ra với tần suất đến mức một bên có thể coi đó là một phần của hoạt động kinh doanh thông thường của mình”.[5] Do đó, khái niệm bất khả kháng được đặc trưng bởi ba yếu tố: không thể lường trước, không thể tránh khỏi và xuất phát từ các trường hợp ngoại lệ.[6] Do những rủi ro bất khả kháng này, các bên thường đồng ý bổ sung Điều khoản bất khả kháng trong hợp đồng của mình. Họ có thể tự do đi lệch khỏi “định nghĩa” pháp lý tiêu chuẩn về trường hợp bất khả kháng.
Khi xác định liệu đại dịch có cấu thành một trường hợp bất khả kháng hay không, một tiêu chí quan trọng là việc hạn chế hoặc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là kết quả trực tiếp từ sự bùng phát của đại dịch hoặc do các biện pháp của cơ quan có thẩm quyền để giải quyết dịch bệnh. Các quyết định hoặc thông báo của chính phủ tuyên bố một sự kiện bất khả kháng cũng được các tòa án Đức cũng tính đến. Trong quá khứ, một số đại dịch khi xét xử đã được tòa án công nhận là sự kiện bất khả kháng. Điển hình là bản án 14 C 4608/03 ngày 9 tháng 11 năm 2004 của Tòa án địa phương Augsburg công nhận dịch SARS là sự kịên bát khả kháng hoặc bản án số 2 C 1451 / 92-18 của tòa án Homburg ngày 2 tháng 9 năm 1992 công nhận dịch tả với cái tên “Cái chết xanh”[8] là sự kiện bất khả kháng. Đối với dịch COVID-19 đang tác động nặng nề, một số Tòa án đã giải quyết coi đây là sự kiện bất khả kháng và áp dụng hậu quả pháp lý theo đó.
Trong những điều kiện nhất định, luật pháp Đức cho phép một bên ký kết chấm dứt toàn bộ hợp đồng vì lý do bất khả kháng. Tuy nhiên, nếu những trở ngại đối với việc thực hiện chỉ mang tính chất tạm thời, luật pháp Đức yêu cầu bên không bị sự kiện bất khả kháng ảnh hưởng đặt ra cho bên bị ảnh hưởng một thời hạn hợp lý hơn để thực hiện. Ngoài ra, trong hợp đồng của mình, các bên có thể thỏa thuận quyền của một bên được tạm hoãn nghĩa vụ của mình nếu bị ảnh hưởng bởi nguyên nhân bất khả kháng. Họ chỉ có thể rút khỏi hợp đồng nếu bên bị ảnh hưởng vẫn chưa hoàn thành việc thực hiện trước thời hạn này. (Điều 323)
Một học thuyết khác cũng được quan tâm khi nghiên cứu về pháp luật hợp đồng của Cộng hòa liên bang Đức là học thuyết hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Trong đó, việc chấm dứt hoặc sửa đổi hợp đồng sẽ bao gồm các tình huống mà nền tảng của thỏa thuận biến mất không do lỗi của bên nào. Trong quá trình cải cách luật hợp đồng chung trong Bộ luật Dân sự Đức năm 2002, Điều 313 mới đã được đưa vào với tiêu đề “xáo trộn nền tảng của giao dịch” (“Störung der Geschäftsgrundlage ”):
“1. Nếu các tình huống, trở thành cơ sở của hợp đồng, đã thay đổi đáng kể kể từ khi hợp đồng được giao kết và các bên sẽ không giao kết hợp đồng hoặc đã giao kết với các nội dung hoàn toàn khác nếu họ thấy trước sự thay đổi này, thì hợp đồng có thể được yêu cầu điều chỉnh, có tính đến tất cả các tình huống của trường hợp cụ thể, cụ thể là phân bổ rủi ro theo hợp đồng hoặc luật định, một trong các bên không thể dự kiến sẽ duy trì thực hiện hợp đồng mà không thay đổi.
…
3. Nếu không thể điều chỉnh hợp đồng hoặc một bên không thể chấp nhận hợp đồng một cách hợp lý, bên bị thiệt thòi có thể rút khỏi hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng có các nghĩa vụ tiếp tục sau đó, quyền chấm dứt thay thế cho quyền rút lại.”
Nếu các điều kiện tiên quyết của Tiểu mục 1 hoặc 2 được đáp ứng và có một phương án điều chỉnh hợp lý, bên bị vi phạm có thể yêu cầu bên kia điều chỉnh.[9] Bên bị vi phạm chỉ được quyền rút khỏi hoặc chấm dứt hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi nếu việc điều chỉnh hợp đồng trở nên bất hợp pháp, không thể thực hiện được hoặc không hợp lý đối với bên kia.[10]
Mặc dù cách áp dụng pháp luật của nước Đức coi đại dịch là sự kiện bất khả kháng thông qua các bản án đã nhắc đến phía trên nhưng để đối phó kịp thời với đại dịch COVID-19 đang hoành hành, ngày 25 tháng 3 năm 2020, Quốc hội Đức (Bundestag) đã thông qua Luật giảm nhẹ hậu quả của đại dịch COVID 19 trong dân sự, phá sản và hình sự trong đó có quy định về hợp đồng thuê như sau:
“Mục 2. Hạn chế việc chấm dứt hợp đồng thuê và cho thuê: Chủ nhà không được phép chấm dứt hợp đồng thuê đất hoặc mặt bằng chỉ với lý do người thuê không trả tiền thuê trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 4 năm 2020 đến ngày 30 tháng 6 năm 2020 mặc dù đã đến hạn, nếu việc không trả là có căn cứ ảnh hưởng của đại dịch COVID 19. Mối liên hệ giữa đại dịch COVID 19 và việc không thanh toán phải được chứng minh. Các quyền chấm dứt khác vẫn không bị ảnh hưởng.”
Chỉ khi việc không trả tiền thuê nhà dựa trên đại dịch COVID 19 thì quyền chấm dứt hợp đồng của chủ nhà mới bị loại trừ. Tuy nhiên, quyền chấm dứt hợp đồng của chủ nhà vẫn có hiệu lực nếu việc không trả tiền thuê nhà là do các lý do khác, chẳng hạn như không muốn trả tiền hoặc trên cơ sở các khoản nợ thuê đã tích lũy trong thời gian trước đó hoặc sẽ phát sinh từ thời kỳ sau. Các hạn chế về quyền chấm dứt hợp đồng áp dụng cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2022 (Điều 240, mục 2 đoạn 4). Sau thời hạn này, quyền chấm dứt hợp đồng của chủ nhà sẽ được khôi phục.
Như vậy, Chính phủ Đức đã áp dụng các biện pháp ngăn cản quyền chấm dứt hợp đồng do sự kiện bất khả kháng đối với một loại hợp đồng cụ thể là hợp đồng thuê bất động sản trong một khoảng thời gian dịch COVID-19 tác động mạnh nhất đến nước Đức. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đại dịch COVID-19 chỉ có thể được coi là một sự kiện bất khả kháng không thể lường trước được đối với các hợp đồng đã được ký kết trước khi nó được biết đến - khoảng cho đến đầu tháng 3 năm 2020. Chắc chắn rằng không ai đã tham gia vào quan hệ hợp đồng từ đầu tháng 3 năm 2020 có thể viện lý do bất khả kháng. Kể từ thời điểm đó, đại dịch đã có thể lường trước trước ở Đức.[11]
Kinh nghiệm nào cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ?
1. Về vấn đề nhận diện đại dịch
Khi nghiên cứu thực tế cách giải quyết của Tòa án hai quốc gia, có thể nhận thấy quan điểm của các quốc gia này thường nhìn nhận đại dịch là sự kiện bất khả kháng. Cộng hoà liên bang Đức đã nhìn nhận nhiều đại dịch xảy ra trong lịch sử là sự kiện bất khả kháng. Cũng có những quốc gia như Trung Quốc, Nhà nước không áp đặt ý chí chung lên mọi quan hệ hợp đồng mà để tranh chấp hợp đồng có thể được giải quyết bằng phương thức tự thỏa thuận và Toà án có thể dễ dàng giải quyết hơn, quốc gia đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về hoàn cảnh thay đổi cơ bản.Với lý do đây là quốc gia đầu tiên bùng phát dịch bệnh COVID-19 cũng là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, việc ban hành văn bản hướng dẫn là rất cần thiết khi đứng trước nhu cầu cấp bách cần làm rõ điều luật về sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi cơ bản và hậu quả pháp lý của chúng.
Việt Nam có thể học tập nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc hướng dẫn cụ thể hơn về trách nhiệm thông báo của bên có nghĩa vụ cho bên có quyền về sự kiện được bên có nghĩa vụ coi là sự kiện bất khả kháng. Tại Việt Nam hiện nay cũng có rất nhiều quan điểm về việc này, cho rằng trách nhiệm thông báo cho bên có quyền và yêu cầu không coi là vi phạm hợp đồng khi bên có nghĩa vụ không còn khả năng thực hiện hợp đồng do đại dịch COVID-19 là một điều kiện cần để có thể áp dụng hậu quả pháp lý của sự kiện bất khả kháng. Do vậy, đặt ra yêu cầu trước mắt là phải có quy định thống nhất về trách nhiệm thông báo của bên có nghĩa vụ tới bên có quyền về việc không thực hiện được nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng là do tác động của đại dịch.
2. Về vấn đề đối phó với đại dịch khi cấp bách
Để giảm thiểu tối đa tác động của đại dịch tới các bên trong hợp đồng, không để bên nào phải chịu thiệt hại nhiều hơn mà hướng tới mục đích cân bằng quyền lợi của cả hai bên, các quốc gia này ban hành văn bản áp dụng biện pháp đối phó tạm thời. Văn bản này áp đặt ý chí nhà nước lên những quan hệ hợp đồng bị tác động bởi đại dịch, các chủ thể không được chấm dứt hợp đồng và bên có nghĩa vụ phải được bên có quyền cho hoãn thực hiện nghĩa vụ trong một khoảng thời gian nhất định mà không được lấy sự chậm thực hiện nghĩa vụ này làm căn cứ để chấm dứt hợp đồng. Khi chính phủ Đức ban hành văn bản như vậy, nó đã nâng tầm từ quyền hoãn thực hiện của các bên trong hợp đồng thành biện pháp áp dụng chung cho mọi quan hệ hợp đồng mà việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng này bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Đây chính là cách nước Đức đã áp dụng để đối phó với tác động của đại dịch COVID-19 với thời gian hoãn là 2 năm kể từ ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.
Từ đây, một bài học kinh nghiệm Việt Nam có thể nghiên cứu về cách đối phó với tác động của đại dịch đến hai bên của hợp đồng là sử dụng quyền hoãn thực hiện hợp đồng này nhằm bình ổn quan hệ dân sự, cũng như bảo vệ bên bị thiệt hại trực tiếp bởi đại dịch. Quyền hoãn thực hiện hợp đồng quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự sẽ được đưa lên thành một biện pháp áp dụng bắt buộc chứ không cần sự đồng ý của bên còn lại trong hợp đồng.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là bên bị ảnh hưởng bởi đại dịch được hoãn thực hiện nghĩa vụ trong bao lâu, khoảng thời gian nào là đủ để có thể hồi phục khả năng thực hiện hợp đồng là một nhiệm vụ cần được xem xét kỹ. Nếu không quy định khoảng thời gian hợp lý này, bên có quyền trong hợp đồng sẽ bị tổn hại lợi ích do bên có nghĩa vụ không cố gắng hoàn thành nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Đặt vào hoàn cảnh và trình độ, thủ tục lập pháp của Việt Nam, để đáp ứng nhu cầu đối phó kịp thời và nhanh chóng trước tình hình dịch bệnh diễn ra phức tạp, ban hành một văn bản hướng dẫn dưới luật là phương pháp khả thi hơn ban hành một luật mới hoặc sửa đổi một điều luật trong bộ luật. Do vậy, học tập nội dung cách đối phó nhanh chóng trước đại dịch của Đức, nhưng quan điểm của nhóm nghiên cứu về phương thức là sẽ không ban hành luật mới mà cần thiết ban hành một văn bản dưới luật hướng dẫn rõ ràng hơn về vấn đề này.
(Nhóm tác giả: Chu Minh Anh ; Phạm Ngọc Ánh; Nguyễn Tống Bảo Minh)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Qiao Liu (2020), “COVID-19 in Civil or Commercial Disputes: First Responses from Chinese Courts”, The Chinese Journal of Comparative Law, (8), tr. 487, Website: https://academic.oup.com/cjcl/article/8/2/485/5899311 (Truy cập ngày 20/02/2021)
[2]江苏省高级人民法院民事审判第一庭,关于印发《规范涉新冠肺炎疫情相关民事法律纠纷的指导意见》的通知 (Hướng dẫn giải quyết tranh chấp dân sự liên quan đến đại dịch COVID-19 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân cấp cao Giang Tô), Website: http://www.faxin.cn/lib/dffl/DfflContent.aspx?gid=B1104685&libid=&userinput= (Truy cập ngày 21/02/2021)
[3] 湖北省高院民二庭, 关于审理涉及新型冠状病毒肺炎疫情商事案件若干问题的解答 (Giải đáp của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân cấp cao Hồ Bắc về việc xét xử các vụ án thương mại liên quan đến đại dịch COVID-19), Website: https://www.sohu.com/a/375174726_800348 (Truy cập ngày 21/02/2021)
[4] Ronald C. Keith – Zhiqiu Lin (2009), “Judicial Interpretation of China’s Supreme People’s Court as “Secondary Law” with Special Reference to Criminal Law”, Sage Journals, Website: https://journals.sagepub.com/doi/10.1177/0920203X09105126 (Truy cập ngày 21/02/2021)
[5] Đoạn 14 bản án số VI ZR 173/06 ngày 16/10/2007 của Tòa án liên bang Đức, https://lexetius.com/2007,3467 truy cập ngày 11/2/2021
[6] Wagner / Holtz / Dötsch (2020), Auswirkungen von COVID-19 auf Lieferverträge (Ảnh hưởng của COVID-19 đối với các hợp đồng cung cấp), Betriebs-Berater, tr.845, https://online.ruw.de/suche/bb/Auswirkungen-von-COVID-19-auf-Liefervertraege-f3752aafe8a6141ae12e22c9e7816519 truy cập ngày 11/2/2021
[7] Silvio Sittner (2020), Mietrechtspraxis unter Covid-19 (Thi hành luật thuê nhà trong Covid-19), NJW Heft 17/2020, tr. 1170, https://beck-online.beck.de/?vpath=bibdata%2fzeits%2fNJW%2f2020%2fcont%2fNJW%2e2020%2eH17%2eNAMEINHALTSVERZEICHNIS%2ehtm truy cập ngày 11/2/2021
[8] Jürgen Osterhammel (2010), The Transformation of the World: A Global History of the Nineteenth Century, https://press.princeton.edu/books/paperback/9780691169804/the-transformation-of-the-world , tr. 283 truy cập ngày 12/2/2021.
[9] Norbert Horn (1985), “Vertragsbindung unter veränderten Umständen: Zur Wirksamkeit von Anpassungsregelungen in langfristigen Verträgen” (Ràng buộc hợp đồng trong các trường hợp thay đổi: Vì hiệu lực của các quy định điều chỉnh trong hợp đồng dài hạn), NJW, https://beck-online.beck.de/Dokument?vpath=bibdata%2Fzeits%2Fnjw%2F1985%2Fcont%2Fnjw.1985.1118.1.htm&pos=13, tr. 1118, truy cập ngày 13/2/2021
[10]Christian Grüneberg (Munich: C.H. Beck, 2020), Palandt: Bürgerliches Gesetzbuch (Palandt: Bộ luật dân sự) tái bản lần thứ 79, § 313 đoạn 42.
[11] Jonas Laudahn, Dr. Birgit Münchbach, Simone Jäger (2020), Force Majeure - under German, French and US law, https://www.fgvw.de/en/news/archive-2020/force-majeure-under-german-french-and-us-law truy cập ngày 12/2/2021.
Cảnh báo nguy cơ doanh nghiệp vướng vào ‘hố đen’ mã độc tống tiền
Bùng nổ công nghệ thông tin là cơ hội để các tổ chức, doanh nghiệp tăng tốc chuyển đổi số cùng với đó là nguy cơ trên không gian mạng, đặc biệt là mã độc tống tiền (ransomware).
Một số quyền của các bên trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài theo Luật trọng tài Việt Nam
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010 (LTTTM). Do đề cao quyền tự thỏa thuận, tự định đoạt của các bên, minh bạch, linh hoạt, thân thiện, nhanh chóng, đảm bảo bí mật cho các bên tranh chấp nên phương thức giải quyết tranh chấp này ngày càng được doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn.
Việc hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong tố tụng trọng tài có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm đảm bảo cho việc doanh nghiệp lựa chọn giải quyết bằng phương thức trọng tài được hiệu quả. Bài viết này đề cập về một số quyền của các bên trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Quyền tự thỏa thuận, tự định đoạt của các bên xuyên suốt, chi phối trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp bằng tố tụng trọng tài, được thể hiện trong LTTTM và/hoặc trong quy tắc tố tụng trọng tài của các trung tâm trọng tài. Cụm từ “do các bên thỏa thuận”, “nếu các bên thỏa thuận”, “do các bên lựa chọn”, “trường hợp các bên đã có thỏa thuận”, “trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”…xuất hiện trong nhiều điều khoản của LTTTM. Theo đó, các bên có quyền thỏa thuận về việc lập thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau khi xảy tranh chấp, lựa chọn trọng tài viên, thay đổi trọng tài viên, thành phần hội đồng trọng tài, hình thức trọng tài (quy chế hoặc vụ việc), ngôn ngữ, địa điểm, luật áp dụng trong trường hợp tranh chấp có yếu tố nước ngoài, phiên họp giải quyết tranh chấp, thành phần thủ tục phiên họp giải quyết tranh chấp…. Khoản 1 Điều 4 LTTTM quy định rõ: “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”. Điều 6 LTTTM quy định: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Để được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, trước hết các bên phải có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và có thể thực hiện được. Theo đó, cần lưu ý một số nội dung sau: (1) Đối tượng giải quyết của thỏa thuận trọng tài là tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, hoặc tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại, hoặc tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài; (2) Người xác lập thỏa thuận trọng tài phải có đủ thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 điều 12 Luật doanh nghiệp 2020, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Do đó để đảm bảo đủ thẩm quyền, thỏa thuận trọng tài phải do người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền hợp pháp xác lập; (3) Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản, có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Ngoài ra, còn có các hình thức thỏa thuận cũng được coi là xác lập bằng văn bản đã được quy định tại khoản 2 điều 16 LTTTM; (4) Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, về việc giải quyết bằng trọng tài đối với tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh. Tuy nhiên các bên nên xác lập thỏa thuận trọng tài ngay từ khi xác lập giao dịch, hợp đồng, nhằm tránh trường hợp các bên không thể xác lập thỏa thuận trọng tài được sau khi xảy ra tranh chấp, nói cách khác là không được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khi không có thỏa thuận trọng tài, hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được; (5) Xem xét áp dụng điều khoản trọng tài mẫu của các trung tâm trọng tài, nhằm tránh thỏa thuận trọng tài không thực hiện được. Khoản 5 điều 43 LTTTM quy định: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng không ghi rõ hình thức trọng tài hoặc không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, thì khi có tranh chấp, các bên phải thỏa thuận lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn”; (6) Nhận diện và loại bỏ sáu trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu quy định tại Điều 18 LTTTM khi xác lập thỏa thuận trọng tài; (7) Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài (điều 19 LTTTM). Tuy nhiên, ngay từ khi đàm phán, giao kết hợp đồng, giao dịch theo hợp đồng phải hợp pháp, không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội, nhằm tránh phán quyết trọng tài bị hủy trong trường hợp hội đồng trọng tài đã giải quyết tranh chấp đối với giao dịch vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”; (8) Tố tụng trọng tài chỉ giải quyết tranh chấp giữa các bên tham gia tố tụng trọng tài với tư cách là nguyên đơn, bị đơn. Tố tụng trọng tài không có đương sự là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Vì vậy thỏa thuận trọng tài không được quy định việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đối với bên thứ ba.
Bên cạnh quyền khởi kiện, quyền rút đơn khởi kiện, nguyên đơn còn có quyền sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện, bị đơn bên cạnh quyền tự bảo vệ, quyền kiện lại, còn có quyền sửa đổi bổ sung đơn kiện lại, bản tự bảo vệ. Tuy nhiên, Hội đồng trọng tài có quyền không chấp nhận các sửa đổi, bổ sung này nếu thấy rằng việc đó có thể bị lạm dụng nhằm gây khó khăn, trì hoãn việc ra phán quyết trọng tài hoặc vượt quá phạm vi của thỏa thuận trọng tài áp dụng cho vụ tranh chấp (khoản 2 điều 37 LTTTM).
Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành (Khoản 5 Điều 61 LTTTM), nhưng một bên có quyền: (1) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết, một bên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài ra phán quyết bổ sung đối với những yêu cầu được trình bày trong quá trình tố tụng nhưng không được ghi trong phán quyết và phải thông báo ngay cho bên kia biết. Nếu Hội đồng trọng tài cho rằng yêu cầu này là chính đáng thì ra phán quyết bổ sung trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hoặc (2) Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 điều 68 LTTTM, thì có quyền có đơn gửi Tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài có nghĩa vụ chứng minh, trừ trường hợp yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo điểm đ khoản 2 điều 68.
Quyền tự định đoạt vẫn được tiến hành ngay cả khi Hội đồng (của Tòa án có thẩm quyền ) xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời gian xem xét đơn, khi có yêu cầu của một bên, có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục thiếu sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài.
Theo doanhnghiephoinhap.vn
Nguồn bài viết: https://doanhnghiephoinhap.vn/mot-so-quyen-cua-cac-ben-trong-giai-quyet-tranh-chap-bang-trong-tai-theo-luat-trong-tai-viet-nam.html
Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết khi hợp đồng thương mại phát sinh tranh chấp?
(Pháp lý) - Khi hợp đồng thương mại phát sinh tranh chấp, nếu các bên đã có thoả thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp thì thẩm quyền giải quyết được ưu tiên áp dụng theo thoả thuận. Trong trường hợp không có thoả thuận và các bên không tự hòa giải thì tranh chấp được giải quyết tại Tòa án.
Trong trường hợp không có thoả thuận và các bên không tự hòa giải thì tranh chấp được giải quyết tại Tòa án
Mới đây, bạn đọc Thanh Nguyễn có gửi đến Tạp chí điện tử Pháp lý câu hỏi nhờ Luật gia tư vấn: Công ty Cổ phần A có trụ sở tại tỉnh NB mua 1 số trang thiết bị của Công ty TNHH B có trụ sở tại Tp HN trị giá 200 triệu đồng. Theo thoả thuận, số trang thiết bị đó được giao tại chi nhánh của công ty Cổ phần A ở Tp HN. Sau khi giao hàng, công ty Cổ phần A cho rằng số trang thiết bị đó không đảm bảo chất lượng và yêu cầu bên bán đổi thiết bị .Công ty TNHH B không đồng ý đổi thiết bị. Công ty Cổ phần A quyết định khởi kiện Công ty TNHH B. Vậy cơ quan nào có quyền giải quyết tranh chấp này và cách giải quyết ? Nếu trong hợp đồng giữa 2 bên có Điều khoản của trọng tài và nội dung của điều khoản"Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam theo quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này". Nội dung này có phù hợp không ? Nếu không thì cần phải thoả thuận như thế nào ?
Luật gia Văn Chiến (Tạp chí điện tử Pháp lý) trả lời như sau:
1.Về cơ quan có quyền giải quyết tranh chấp
Về nguyên tắc, đối với hợp đồng thương mại khi phát sinh tranh chấp thì thẩm quyền giải quyết được ưu tiên áp dụng theo thỏa thuận hợp pháp của các bên ghi nhận tại hợp đồng/ tài liệu khác.
Theo đó, nếu các bên đã có thoả thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp (hoà giả thương mại, trọng tài hoặc toà án) thì khi phát sinh tranh chấp thì thẩm quyền giải quyết được ưu tiên áp dụng theo thoả thuận.
Trong trường hợp không có thoả thuận, thì khi phát sinh tranh chấp hợp đồng, nếu các bên không tự hòa giải thì tranh chấp được giải quyết tại Tòa án. Theo đó, người khởi kiện (nguyên đơn) có quyền nộp đơn khởi kiện tại Toà án Nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức.
Trong trường hợp, có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì nộp đơn tại toà án cấp Tỉnh giải quyết.
Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng giải quyết; Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết; Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết…
2. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp:
- Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Hòa giải thương mại được quy định chi tiết tại Nghị định 22/2017/NĐ-CP Về hòa giải thương mại theo đó, các bên tự thỏa thuận trình tự hòa giải, nếu không thỏa thuận thì hòa giải viên thực hiện theo trình tự phù hợp với vụ việc, nguyện vọng, được các bên đồng ý.
Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại: Theo quy định tại Luật Trọng tài thương mại 2010, khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài các bên thực hiện theo trình tự sau:
Bước 1: Nộp đơn khởi kiện
Bước 2: Bị đơn nộp bản tự bảo vệ
Bước 3: Thành lập hội đồng trọng tài
Bước 4: Hòa giải
Bước 5: Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp
Bước 6: Hội đồng trọng tài ra phán quyết
-Trình tự giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án: Theo quy định tại Bộ Luật tố tụng Dân sự 2015, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Tòa án được thực hiên như sau:
Khởi kiện: khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, một hoặc các bên tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thụ lý vụ án: Trong thời hạn 8 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải ra một trong các quyết định sau: Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền; Trả lại đơn khởi kiện; Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án.
Chuẩn bị giải quyết: Sau khi thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án. Thẩm phán tiến hành các công viêc chuẩn bị xét xử: thu thập chứng cứ; tiến hành hoà giải.
Phiên Tòa sơ thẩm: Phiên Tòa sơ thẩm phải được mở trong thời gian 30 ngày kể từ ngày có Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thủ tục xét xử phúc thẩm được tiến hành nếu có kháng cáo; Xét xử lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm được thực hiện nếu có kháng nghị.
2. Nếu trong hợp đồng giữa 2 bên có Điều khoản của trọng tài và nội dung của điều khoản"mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam theo quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này". Nội dung này theo chúng tôi là hoàn toàn phù hợp.
Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự;
Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự: Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
Do đó, nếu trong hợp đồng giữa 2 bên có Điều khoản của trọng tài và nội dung của điều khoản"Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam theo quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này" Nội dung này hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật về hợp đồng.
LG. Văn Chiến
Rủi ro, bất cập khi khai thác công nghệ thông qua hình thức góp vốn
Khi tốc độ của khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ thì việc góp vốn hiện nay vào các doanh nghiệp không còn chỉ tập trung vào tài sản hữu hình nữa mà còn cả tài sản vô hình như giá trị công nghệ.
Điều này đã được ghi nhận trong Bộ Luật dân sự 2015, Luật Doanh nghiệp 2020 và Luật Chuyển giao công nghệ 2017. Tuy nhiên, việc định giá tài sản góp vốn là công nghệ hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp.
Góp vốn bằng công nghệ là một trong những hình thức chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ là việc chuyển nhượng quyền sở hữu công nghệ hoặc chuyển giao quyền sử dụng công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ. Hay nói cách khác, góp vốn bằng công nghệ chính là việc thành viên hoặc cổ đông sáng lập sử dụng giá trị quyền chuyển giao công nghệ mà thành viên hoặc cổ đông đang sử dụng công nghệ để góp vốn vào tài sản của doanh nghiệp. Sau khi góp vốn bằng giá trị quyền chuyển giao công nghệ thì thành viên hoặc cổ đông sáng lập đó không còn là chủ sử dụng đối với loại tài sản này. Giá trị quyền sử dụng công nghệ sẽ thuộc về doanh nghiệp nơi mà thành viên hoặc cổ đông đó đã đăng ký góp vốn vào.
Rủi ro đến từ việc định giá không đúng tài sản góp vốn là công nghệ.
Theo quy định tại Điều 34 của Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì:
“1. Tài sản góp vốn là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
2. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp hoặc có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản quy định tại khoản 1 Điều này mới có quyền sử dụng tài sản đó để góp vốn theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, tổ chức, cá nhân hoàn toàn có quyền góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản là công nghệ. Tuy nhiên, tài sản là công nghệ lại không phải là tài sản Đồng Việt Nam nên theo quy định của luật doanh nghiệp hiện hành, cụ thể tại Điều 36 thì những tài sản này cần phải thực hiện thủ tục định giá trước khi góp vốn. Việc định giá tài sản góp vốn hiện nay có thể được thực hiện bởi các thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc đồng thuận hoặc được thực hiện bởi một tổ chức thẩm định giá định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được trên 50% số thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận. Vậy nhưng, có một thức tế rằng không phải doanh nghiệp hay tổ chức định giá nào cũng đủ khả năng định giá đúng tài sản góp vốn là công nghệ.
Doanh nghiệp định giá công nghệ cao hơn giá trị thực tế sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Đây là trường hợp mà khi nhận tài sản góp vốn là công nghệ, doanh nghiệp có thể không biết hoặc cố tình định giá công nghệ cao hơn giá trị thực tế.
Trường hợp doanh nghiệp không biết giá trị thật của công nghệ mà định giá quá cao thì có thể dẫn tới rủi ro như nhận chuyển giao công nghệ đã cũ, lạc hậu và không có tính ứng dụng. Điều này có thể xảy ra đối với những doanh nghiệp nhỏ với sự hiểu biết về khoa học công nghệ còn hạn chế.
Có một thực tế rằng hiện nay, trên thị trường công nghệ, người bán công nghệ (người góp vốn bằng công nghệ) thường có lợi thế hơn và chủ động hơn, còn người mua (doanh nghiệp nhận vốn góp) lại phải chịu áp lực của thời gian và phải chịu những vấn đề chủ yếu để bảo đảm cạnh tranh. Khi góp vốn bằng công nghệ, sở dĩ người góp vốn thường sẽ là người có lợi thế hơn do họ nắm được rất rõ về thông tin, ứng dụng và giá trị về công nghệ của mình. Ngược lại, doanh nghiệp nhận vốn góp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ lại thường rơi vào thế bị động do không thể nắm được hết các giá trị sử dụng, lợi ích của việc ứng dụng công nghệ hoặc việc định giá chỉ dựa vào “thông lệ” của những trường hợp chuyển giao công nghệ tương tự, dẫn tới việc khi nhận chuyển giao, doanh nghiệp có thể nhận được công nghệ không đúng như mong đợi ban đầu.
Đối với trường hợp doanh nghiệp đã biết giá trị thật của bí quyết công nghệ nhưng tại thời điểm định giá lại cố tình định giá cao, thổi phồng giá trị vốn hóa tiền đầu tư thì khi kết thúc định giá, doanh nghiệp sẽ phải tìm cách bù vào phần chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn. Cụ thể, việc định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn có thể dẫn tới hệ quả là các thành viên, cổ đông sáng lập phải cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá. Nếu các thành viên, cổ đông sáng lập không đủ điều kiện và khả năng góp thêm số vốn bị chênh lệch thì tất cả phải liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại đến từ hành vi cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế.
Vụ việc định giá tài sản góp vốn là công nghệ quá cao của công ty TNHH tư vấn Ánh Dương dưới đây là một lưu ý cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các bạn trẻ muốn khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay:
Để thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Ánh Dương, các thành viên sáng lập công ty đã cam kết góp như sau: H cam kết góp 700 triệu đồng bằng tiền mặt, N góp vốn bằng quyền sử dụng công nghệ là cách vận hành phần mềm chăm sóc khách hàng tự động có ứng dụng trí tuệ nhân tạo, việc góp vốn bằng công nghệ của N được các thành viên còn lại nhất trí định giá là 1,2 tỷ đồng, B góp vốn bằng ngôi nhà của mình giá trị thực tế vào thời điểm góp vốn là khoảng 1 tỉ đồng.
Tuy nhiên, khi doanh nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động thì bí quyết công nghệ của N lại không có khả năng tương thích với hệ thống máy tính trong công ty, dẫn tới hậu quả là công ty tạm thời chưa thể khai thác được lợi ích đến từ cách sử dụng phần mềm của N. Chưa dừng lại đó, trong quá trình chờ đợi nâng cấp hệ thống máy tính để tương thích với phần mềm thì thời hạn các thành viên phải cam kết góp đủ vốn theo quy định (90 ngày) đã hết. Trường hợp này công ty sẽ vô tình phải chịu thiệt hại không đáng có và rất khó để xác định N đã hoàn thành việc góp đủ vốn hay chưa, vì rõ ràng bí quyết công nghệ thì N đã đưa ra nhưng thực tế công ty lại chưa có được giá trị cụ thể mà bí quyết công nghệ này mang lại, chưa kể công ty còn phải mất thêm chi phí để nâng cấp, cập nhật hệ thống máy tính để tương thích với bí quyết công nghệ của N.
Hoạt động định giá công nghệ của các tổ chức trung gian hiện này còn sơ khai.
Trong thời gian qua, hoạt động định giá công nghệ tại Việt Nam là nhu cầu khá lớn của xã hội, tuy nhiên dịch vụ này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ chuyển giao công nghệ. Hoạt động định giá của các tổ chức trung gian còn rất sơ khai, chưa mang tính chuyên nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp cũng chưa thật sự quan tâm, chưa có thói quan thuê tư vấn đánh giá, định giá công nghệ, môi giới chuyển giao công nghệ trong các khâu quy trình chuyển giao công nghệ, phần lớn chỉ tập trung vào việc mua máy móc, thiết bị… Chính vì thế mà hoạt động định giá công nghệ của các tổ chức trung gian chưa phát huy được hết vai trò.
Về thực tiễn, công tác định giá công nghệ hiện nay ở nước ta chưa có hướng dẫn cụ thể của cơ quan chức năng. Việc định giá công nghệ tại Việt Nam không áp dụng theo chuẩn mực các phương pháp mà các nước đã áp dụng, chỉ là ước tính với các con số được làm tròn (ngay cả một số thông số cần thiết cũng chưa được đề cập đến như niên hạn trích phần trăm, tỉ lệ khấu trừ, tuổi thọ kinh tế còn lại của bằng độc quyền,…). Hệ thống thống kê hồ sơ, tài liệu liên quan đến sáng chế, công nghệ….thường không đầy đủ và rất khó tiếp cận. Thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể trong việc quy định chi phí cho định giá công nghệ và chi phí thuê tư vấn định giá công nghệ.
Như vậy, dù là doanh nghiệp tự tổ chức định giá tài sản vốn góp hay thuê tổ chức thẩm định giá định giá thì việc nhận vốn góp bằng công nghệ này cũng tồn tại nhiều rủi ro. Chưa kể hiện nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể nào về tỷ lệ trách nhiệm bồi thường giữa bên góp vốn và người định giá trong vấn đề này, chính vì thế, loại tài sản dùng để góp vốn này tiềm ẩn nhiều rủi ro và nguy cơ tranh chấp cho doanh nghiệp.
Theo phapluatbanquyen.phaply.vn
Nguồn bài viết: https://phapluatbanquyen.phaply.vn/rui-ro-bat-cap-khi-khai-thac-cong-nghe-thong-qua-hinh-thuc-gop-von-bv444/
Bài học kinh nghiệm doanh nghiệp cần lưu ý khi hợp tác đầu tư kinh doanh nhìn từ vụ tranh chấp nội bộ công ty Bay Water.
(Pháp lý) - Viện KSND tối cao đã ra quyết định kháng nghị đối với Quyết định phúc thẩm của TAND Cấp cao tại TP.HCM liên quan đến vụ tranh chấp nội bộ giữa các thành viên của Công ty TNHH Bay Water chủ đầu tư dự án Sunwah Pearl – vụ việc được dư luận rất chú ý, quan tâm suốt thời gian qua bởi những quyết định trái ngược của tòa án các cấp. Tuy nhiên, dù kết quả các vụ tranh chấp này có như thế nào đi nữa, người thua thiệt cuối cùng không ai khác chính các thành viên trong nội bộ công ty Bay Water. Đây là bài học đắt giá mà các doanh nghiệp cần phải lưu ý khi hợp tác đầu tư kinh doanh.