Quyền tiếp cận đất đai của Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Quốc tế
(Pháp lý) - Quyền tiếp cận đất đai là một trong những vấn đề hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói riêng. Pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian vừa qua đã không ngừng được đổi mới, hoàn thiện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về nội dung này vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập tạo ra những rào cản đối với quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Những điểm cần lưu ý đối với điều tra viên khi tham dự phiên toà xét xử các vụ án tham nhũng
(Pháp Lý) - Thực tiễn quá trình xét xử các vụ án tham nhũng cho thấy, trong một số trường hợp cụ thể, Hội đồng xét xử sẽ triệu tập Điều tra viên thụ lý vụ án để làm rõ những nội dung còn nhiều vướng mắc có liên quan đến vụ án.
Một số vấn đề về pháp luật đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại ngân hàng thương mại cổ phần
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các giao dịch liên quan đến đất đai, cụ thể là đăng ký thế chấp quyền sử đụng đất và tài sản gắn liền với đất tại ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) ngày càng đa dạng, phức tạp; một số quy định trước đây chưa rõ ràng, dẫn đến cách hiểu không thống nhất và khó thực hiện... Bài viết nhằm định hướng, hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại ngân hàng TMCP theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Một số nội dung mới của các tội phạm khác về chức vụ theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế toàn diện về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hoóa-xã hội… Bên cạnh những lợi ích việc phát triển nền kinh tế thị trường đem lại, trong thời gian qua, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật ở nước ta đã có chiều hướng gia tăng và diễn biến hết sức phức tạp, trong đó phải kể đến tội phạm khác về chức vụ
Phương thức, thủ đoạn của tội phạm rửa tiền tại Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống
( Pháp Lý) - Trong bối cảnh toàn cầu hóa,Việt Nam dễ trở thành “thiên đường” rửa tiền của các đối tượng phạm tội. Hoạt động phạm tội rửa tiền diễn ra vô cùng phức tạp, thủ đoạn tinh vi, có tổ chức khiến công tác kiểm soát, phát hiện ngày càng khó khăn. Rửa tiền không chỉ ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị mà còn đe dọa tới an ninh các quốc gia trong đó có Việt Nam khi các dòng tiền này được tài trợ cho khủng bố. Do đó, việc tìm hiểu các phương thức, thủ đoạn của đối tượng phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc chủ động phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm rửa tiền.
Phân biệt tội tham ô tài sản với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
(Pháp Lý). Bài viết phân tích những đặc điểm pháp lý có tính chất tương đồng và khác biệt giữa Tội tham ô tài sản với Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Việc phân biệt hai tội danh này trong thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng khi định tội danh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Pháp luật Hợp đồng của Trung Quốc và Đức trước tác động của đại dịch và kinh nghiệm cho Việt Nam
(Pháp lý) - Một trong những hiện tượng đáng chú ý năm qua là việc đại dịch COVID-19 ảnh hưởng nặng nề đến quá trình thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể trong hợp đồng. Để hiểu rõ bản chất pháp lý của hiện tượng này, bài viết nghiên cứu sau đây của nhóm tác giả ( sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội) - Chu Minh Anh (MSSV 433326) , Phạm Ngọc Ánh ( MSSV 433308) , Nguyễn Tống Bảo Minh ( MSSV 433311) sẽ thông tin đến độc giả cách tiếp cận của pháp luật Trung Quốc và Đức trước tác động của các đại dịch, từ đó nêu ra kinh nghiệm cho pháp luật hợp đồng của Việt Nam.
Pháp luật hợp đồng của Trung Quốc dưới tác động của đại dịch
Kể từ khi khái niệm đại dịch bắt đầu được sử dụng rộng rãi vào đầu thế kỷ XX, Trung Quốc luôn là một trong số những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ đại dịch. Có thể nói, dưới sự tác động của ba đại dịch vừa qua trong đầu thế kỷ XXI là SARS, H1N1 và COVID-19, pháp luật hợp đồng Trung Quốc đã có những thay đổi mang tính hệ thống.
Trong bối cảnh đại dịch SARS năm 2003 bùng phát, pháp luật hợp đồng Trung Quốc mới chỉ quy định về sự kiện bất khả kháng chứ chưa có quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Điều 117 Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999 đã quy định về việc miễn trách nhiệm cho bên không thể thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng do sự kiện bất khả kháng và cũng đưa ra khái niệm sự kiện bất khả kháng với những đặc điểm pháp lý là “các sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước, không thể ngăn chặn và không thể khắc phục”.
Việc mới chỉ quy định về sự kiện bất khả kháng trong Luật Hợp đồng năm 1999 đã khiến cho quan điểm chủ đạo của các Tòa án Trung Quốc trong thời kỳ này là nhìn nhận SARS 2003 như một sự kiện bất khả kháng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng dưới sự ảnh hưởng của đại dịch. Điều này có thể khiến cho việc thực hiện hợp đồng mới chỉ gặp khó khăn do sự ảnh hưởng của đại dịch không thể được giải quyết một cách chính xác.
Tới năm 2009 trước bối cảnh đại dịch cúm H1N1 bắt đầu bùng phát, thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản mới chính thức được quy định trong pháp luật hợp đồng Trung Quốc tại Hướng dẫn số 02 ngày 24/04/2009 của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc về một số vấn đề trong thi hành Luật Hợp đồng. Tại Điều 26, hoàn cảnh thay đổi cơ bản đã được định nghĩa là “sự thay đổi hoàn cảnh khách quan sau khi giao kết hợp đồng mà sự thay đổi đó lớn đến mức các bên không thể thấy khi giao kết hợp đồng, không thuộc trường hợp rủi ro thương mại do sự kiện bất khả kháng và việc tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới một bên hoặc không thể khiến đạt được mục đích của hợp đồng”.
Tuy nhiên về cơ chế giải quyết thì pháp luật Trung Quốc mới chỉ cho các bên quyền được yêu cầu Tòa án sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng mà chưa cho họ quyền đàm phán lại hợp đồng.
Hiện nay dưới sự tác động của đại dịch COVID-19, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn, trong đó quan trọng nhất là Hướng dẫn số 1 ngày 16/04/2020 về COVID-19 và Hướng dẫn số 2 ngày 15/05/2020 về COVID-19 của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc. Thông qua hai văn bản này, Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc đã đưa ra quan điểm mới trong việc nhìn nhận đại dịch và cũng đồng thời đưa ra những quy phạm nhằm giảm thiểu sự ảnh hưởng của COVID-19 tới quan hệ hợp đồng, cụ thể:
Thứ nhất, đưa ra quan điểm nhìn nhận đại dịch dưới góc độ pháp lý
Trung Quốc đã có sự thay đổi rõ rệt về quan điểm nhìn nhận đại dịch so với năm 2003, theo đó trong bối cảnh COVID-19 bùng phát, đại dịch vừa có thể được coi là sự kiện bất khả kháng lẫn hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Theo quan điểm này, học thuyết về sự kiện bất khả kháng và học thuyết về hoàn cảnh thay đổi cơ bản không loại trừ lẫn nhau, một sự kiện vừa có thể được coi là sự kiện bất khả kháng cũng như là hoàn cảnh thay đổi cơ bản tùy vào từng trường hợp cụ thể.[2]
Thứ hai, quy định chi tiết, bổ sung quy định về sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Về sự kiện bất khả kháng, Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc đã quy định chi tiết hơn rằng quy định về sự kiện bất khả kháng sẽ chỉ được áp dụng khi đại dịch hoặc biện pháp phòng, kiểm soát dịch trực tiếp khiến cho không thể thực hiện được hợp đồng. Bên cạnh đó, đối với hoàn cảnh thay đổi cơ bản, hai văn bản trên đã bổ sung quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng nhằm khắc phục những thiếu sót của Hướng dẫn số 2 năm 2009 về thi hành Luật Hợp đồng.
Thứ ba, đưa ra những biện pháp đối với các hợp đồng cụ thể nhằm giảm thiểu sự ảnh hưởng của COVID-19
Nhìn chung, các quy phạm trong hai văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc đều hướng tới nhằm duy trì quan hệ hợp đồng trong bối cảnh đại dịch thông qua việc khuyến khích các bên sửa đổi và hạn chế việc chấm dứt hợp đồng vì khó khăn trong việc thực hiện do sự ảnh hưởng của COVID-19 với các biện pháp phòng, kiểm soát dịch.
Từ những phân tích trên, có thể thấy pháp luật hợp đồng Trung Quốc dưới sự tác động của COVID-19 đã có những sự thay đổi theo chiều hướng duy trì sự ổn định của quan hệ dân sự, từ đó giảm thiểu sự ảnh hưởng của đại dịch tới nền kinh tế, xã hội. Sự thay đổi này chủ yếu thông qua các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc – những văn bản được coi là luật thứ cấp tại Trung Quốc.[4]
Pháp luật hợp đồng của Cộng hòa Liên bang Đức dưới tác động của đại dịch
Chỉ tính riêng đại dịch COVID-19, nước Đức đã bị tác động và ảnh hưởng rất nhiều. Trước tiên, Bộ luật dân sự Đức không có định nghĩa cụ thể về “sự kiện bất khả kháng”. Đối chiếu với Đạo luật trách nhiệm pháp lý của Đức (Haftpflichtgesetz) sự kiện bất khả kháng là: “Một sự kiện nằm ngoài quy trình kinh doanh thông thường gây ra một cách khách quan bởi tự nhiên hoặc do hành động của các bên thứ ba, không thể lường trước được theo tiêu chuẩn về sự hiểu biết và kinh nghiệm của con người, không thể bị ngăn chặn hoặc làm cho vô hại bằng các phương tiện kinh tế được, ngay cả khi hết sức thận trọng dự trù một cách hợp lý, và điều đó không xảy ra với tần suất đến mức một bên có thể coi đó là một phần của hoạt động kinh doanh thông thường của mình”.[5] Do đó, khái niệm bất khả kháng được đặc trưng bởi ba yếu tố: không thể lường trước, không thể tránh khỏi và xuất phát từ các trường hợp ngoại lệ.[6] Do những rủi ro bất khả kháng này, các bên thường đồng ý bổ sung Điều khoản bất khả kháng trong hợp đồng của mình. Họ có thể tự do đi lệch khỏi “định nghĩa” pháp lý tiêu chuẩn về trường hợp bất khả kháng.
Khi xác định liệu đại dịch có cấu thành một trường hợp bất khả kháng hay không, một tiêu chí quan trọng là việc hạn chế hoặc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là kết quả trực tiếp từ sự bùng phát của đại dịch hoặc do các biện pháp của cơ quan có thẩm quyền để giải quyết dịch bệnh. Các quyết định hoặc thông báo của chính phủ tuyên bố một sự kiện bất khả kháng cũng được các tòa án Đức cũng tính đến. Trong quá khứ, một số đại dịch khi xét xử đã được tòa án công nhận là sự kiện bất khả kháng. Điển hình là bản án 14 C 4608/03 ngày 9 tháng 11 năm 2004 của Tòa án địa phương Augsburg công nhận dịch SARS là sự kịên bát khả kháng hoặc bản án số 2 C 1451 / 92-18 của tòa án Homburg ngày 2 tháng 9 năm 1992 công nhận dịch tả với cái tên “Cái chết xanh”[8] là sự kiện bất khả kháng. Đối với dịch COVID-19 đang tác động nặng nề, một số Tòa án đã giải quyết coi đây là sự kiện bất khả kháng và áp dụng hậu quả pháp lý theo đó.
Trong những điều kiện nhất định, luật pháp Đức cho phép một bên ký kết chấm dứt toàn bộ hợp đồng vì lý do bất khả kháng. Tuy nhiên, nếu những trở ngại đối với việc thực hiện chỉ mang tính chất tạm thời, luật pháp Đức yêu cầu bên không bị sự kiện bất khả kháng ảnh hưởng đặt ra cho bên bị ảnh hưởng một thời hạn hợp lý hơn để thực hiện. Ngoài ra, trong hợp đồng của mình, các bên có thể thỏa thuận quyền của một bên được tạm hoãn nghĩa vụ của mình nếu bị ảnh hưởng bởi nguyên nhân bất khả kháng. Họ chỉ có thể rút khỏi hợp đồng nếu bên bị ảnh hưởng vẫn chưa hoàn thành việc thực hiện trước thời hạn này. (Điều 323)
Một học thuyết khác cũng được quan tâm khi nghiên cứu về pháp luật hợp đồng của Cộng hòa liên bang Đức là học thuyết hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Trong đó, việc chấm dứt hoặc sửa đổi hợp đồng sẽ bao gồm các tình huống mà nền tảng của thỏa thuận biến mất không do lỗi của bên nào. Trong quá trình cải cách luật hợp đồng chung trong Bộ luật Dân sự Đức năm 2002, Điều 313 mới đã được đưa vào với tiêu đề “xáo trộn nền tảng của giao dịch” (“Störung der Geschäftsgrundlage ”):
“1. Nếu các tình huống, trở thành cơ sở của hợp đồng, đã thay đổi đáng kể kể từ khi hợp đồng được giao kết và các bên sẽ không giao kết hợp đồng hoặc đã giao kết với các nội dung hoàn toàn khác nếu họ thấy trước sự thay đổi này, thì hợp đồng có thể được yêu cầu điều chỉnh, có tính đến tất cả các tình huống của trường hợp cụ thể, cụ thể là phân bổ rủi ro theo hợp đồng hoặc luật định, một trong các bên không thể dự kiến sẽ duy trì thực hiện hợp đồng mà không thay đổi.
…
3. Nếu không thể điều chỉnh hợp đồng hoặc một bên không thể chấp nhận hợp đồng một cách hợp lý, bên bị thiệt thòi có thể rút khỏi hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng có các nghĩa vụ tiếp tục sau đó, quyền chấm dứt thay thế cho quyền rút lại.”
Nếu các điều kiện tiên quyết của Tiểu mục 1 hoặc 2 được đáp ứng và có một phương án điều chỉnh hợp lý, bên bị vi phạm có thể yêu cầu bên kia điều chỉnh.[9] Bên bị vi phạm chỉ được quyền rút khỏi hoặc chấm dứt hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi nếu việc điều chỉnh hợp đồng trở nên bất hợp pháp, không thể thực hiện được hoặc không hợp lý đối với bên kia.[10]
Mặc dù cách áp dụng pháp luật của nước Đức coi đại dịch là sự kiện bất khả kháng thông qua các bản án đã nhắc đến phía trên nhưng để đối phó kịp thời với đại dịch COVID-19 đang hoành hành, ngày 25 tháng 3 năm 2020, Quốc hội Đức (Bundestag) đã thông qua Luật giảm nhẹ hậu quả của đại dịch COVID 19 trong dân sự, phá sản và hình sự trong đó có quy định về hợp đồng thuê như sau:
“Mục 2. Hạn chế việc chấm dứt hợp đồng thuê và cho thuê: Chủ nhà không được phép chấm dứt hợp đồng thuê đất hoặc mặt bằng chỉ với lý do người thuê không trả tiền thuê trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 4 năm 2020 đến ngày 30 tháng 6 năm 2020 mặc dù đã đến hạn, nếu việc không trả là có căn cứ ảnh hưởng của đại dịch COVID 19. Mối liên hệ giữa đại dịch COVID 19 và việc không thanh toán phải được chứng minh. Các quyền chấm dứt khác vẫn không bị ảnh hưởng.”
Chỉ khi việc không trả tiền thuê nhà dựa trên đại dịch COVID 19 thì quyền chấm dứt hợp đồng của chủ nhà mới bị loại trừ. Tuy nhiên, quyền chấm dứt hợp đồng của chủ nhà vẫn có hiệu lực nếu việc không trả tiền thuê nhà là do các lý do khác, chẳng hạn như không muốn trả tiền hoặc trên cơ sở các khoản nợ thuê đã tích lũy trong thời gian trước đó hoặc sẽ phát sinh từ thời kỳ sau. Các hạn chế về quyền chấm dứt hợp đồng áp dụng cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2022 (Điều 240, mục 2 đoạn 4). Sau thời hạn này, quyền chấm dứt hợp đồng của chủ nhà sẽ được khôi phục.
Như vậy, Chính phủ Đức đã áp dụng các biện pháp ngăn cản quyền chấm dứt hợp đồng do sự kiện bất khả kháng đối với một loại hợp đồng cụ thể là hợp đồng thuê bất động sản trong một khoảng thời gian dịch COVID-19 tác động mạnh nhất đến nước Đức. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đại dịch COVID-19 chỉ có thể được coi là một sự kiện bất khả kháng không thể lường trước được đối với các hợp đồng đã được ký kết trước khi nó được biết đến - khoảng cho đến đầu tháng 3 năm 2020. Chắc chắn rằng không ai đã tham gia vào quan hệ hợp đồng từ đầu tháng 3 năm 2020 có thể viện lý do bất khả kháng. Kể từ thời điểm đó, đại dịch đã có thể lường trước trước ở Đức.[11]
Kinh nghiệm nào cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ?
1. Về vấn đề nhận diện đại dịch
Khi nghiên cứu thực tế cách giải quyết của Tòa án hai quốc gia, có thể nhận thấy quan điểm của các quốc gia này thường nhìn nhận đại dịch là sự kiện bất khả kháng. Cộng hoà liên bang Đức đã nhìn nhận nhiều đại dịch xảy ra trong lịch sử là sự kiện bất khả kháng. Cũng có những quốc gia như Trung Quốc, Nhà nước không áp đặt ý chí chung lên mọi quan hệ hợp đồng mà để tranh chấp hợp đồng có thể được giải quyết bằng phương thức tự thỏa thuận và Toà án có thể dễ dàng giải quyết hơn, quốc gia đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về hoàn cảnh thay đổi cơ bản.Với lý do đây là quốc gia đầu tiên bùng phát dịch bệnh COVID-19 cũng là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, việc ban hành văn bản hướng dẫn là rất cần thiết khi đứng trước nhu cầu cấp bách cần làm rõ điều luật về sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi cơ bản và hậu quả pháp lý của chúng.
Việt Nam có thể học tập nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc hướng dẫn cụ thể hơn về trách nhiệm thông báo của bên có nghĩa vụ cho bên có quyền về sự kiện được bên có nghĩa vụ coi là sự kiện bất khả kháng. Tại Việt Nam hiện nay cũng có rất nhiều quan điểm về việc này, cho rằng trách nhiệm thông báo cho bên có quyền và yêu cầu không coi là vi phạm hợp đồng khi bên có nghĩa vụ không còn khả năng thực hiện hợp đồng do đại dịch COVID-19 là một điều kiện cần để có thể áp dụng hậu quả pháp lý của sự kiện bất khả kháng. Do vậy, đặt ra yêu cầu trước mắt là phải có quy định thống nhất về trách nhiệm thông báo của bên có nghĩa vụ tới bên có quyền về việc không thực hiện được nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng là do tác động của đại dịch.
2. Về vấn đề đối phó với đại dịch khi cấp bách
Để giảm thiểu tối đa tác động của đại dịch tới các bên trong hợp đồng, không để bên nào phải chịu thiệt hại nhiều hơn mà hướng tới mục đích cân bằng quyền lợi của cả hai bên, các quốc gia này ban hành văn bản áp dụng biện pháp đối phó tạm thời. Văn bản này áp đặt ý chí nhà nước lên những quan hệ hợp đồng bị tác động bởi đại dịch, các chủ thể không được chấm dứt hợp đồng và bên có nghĩa vụ phải được bên có quyền cho hoãn thực hiện nghĩa vụ trong một khoảng thời gian nhất định mà không được lấy sự chậm thực hiện nghĩa vụ này làm căn cứ để chấm dứt hợp đồng. Khi chính phủ Đức ban hành văn bản như vậy, nó đã nâng tầm từ quyền hoãn thực hiện của các bên trong hợp đồng thành biện pháp áp dụng chung cho mọi quan hệ hợp đồng mà việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng này bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Đây chính là cách nước Đức đã áp dụng để đối phó với tác động của đại dịch COVID-19 với thời gian hoãn là 2 năm kể từ ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.
Từ đây, một bài học kinh nghiệm Việt Nam có thể nghiên cứu về cách đối phó với tác động của đại dịch đến hai bên của hợp đồng là sử dụng quyền hoãn thực hiện hợp đồng này nhằm bình ổn quan hệ dân sự, cũng như bảo vệ bên bị thiệt hại trực tiếp bởi đại dịch. Quyền hoãn thực hiện hợp đồng quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự sẽ được đưa lên thành một biện pháp áp dụng bắt buộc chứ không cần sự đồng ý của bên còn lại trong hợp đồng.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là bên bị ảnh hưởng bởi đại dịch được hoãn thực hiện nghĩa vụ trong bao lâu, khoảng thời gian nào là đủ để có thể hồi phục khả năng thực hiện hợp đồng là một nhiệm vụ cần được xem xét kỹ. Nếu không quy định khoảng thời gian hợp lý này, bên có quyền trong hợp đồng sẽ bị tổn hại lợi ích do bên có nghĩa vụ không cố gắng hoàn thành nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Đặt vào hoàn cảnh và trình độ, thủ tục lập pháp của Việt Nam, để đáp ứng nhu cầu đối phó kịp thời và nhanh chóng trước tình hình dịch bệnh diễn ra phức tạp, ban hành một văn bản hướng dẫn dưới luật là phương pháp khả thi hơn ban hành một luật mới hoặc sửa đổi một điều luật trong bộ luật. Do vậy, học tập nội dung cách đối phó nhanh chóng trước đại dịch của Đức, nhưng quan điểm của nhóm nghiên cứu về phương thức là sẽ không ban hành luật mới mà cần thiết ban hành một văn bản dưới luật hướng dẫn rõ ràng hơn về vấn đề này.
(Nhóm tác giả: Chu Minh Anh ; Phạm Ngọc Ánh; Nguyễn Tống Bảo Minh)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Qiao Liu (2020), “COVID-19 in Civil or Commercial Disputes: First Responses from Chinese Courts”, The Chinese Journal of Comparative Law, (8), tr. 487, Website: https://academic.oup.com/cjcl/article/8/2/485/5899311 (Truy cập ngày 20/02/2021)
[2]江苏省高级人民法院民事审判第一庭,关于印发《规范涉新冠肺炎疫情相关民事法律纠纷的指导意见》的通知 (Hướng dẫn giải quyết tranh chấp dân sự liên quan đến đại dịch COVID-19 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân cấp cao Giang Tô), Website: http://www.faxin.cn/lib/dffl/DfflContent.aspx?gid=B1104685&libid=&userinput= (Truy cập ngày 21/02/2021)
[3] 湖北省高院民二庭, 关于审理涉及新型冠状病毒肺炎疫情商事案件若干问题的解答 (Giải đáp của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân cấp cao Hồ Bắc về việc xét xử các vụ án thương mại liên quan đến đại dịch COVID-19), Website: https://www.sohu.com/a/375174726_800348 (Truy cập ngày 21/02/2021)
[4] Ronald C. Keith – Zhiqiu Lin (2009), “Judicial Interpretation of China’s Supreme People’s Court as “Secondary Law” with Special Reference to Criminal Law”, Sage Journals, Website: https://journals.sagepub.com/doi/10.1177/0920203X09105126 (Truy cập ngày 21/02/2021)
[5] Đoạn 14 bản án số VI ZR 173/06 ngày 16/10/2007 của Tòa án liên bang Đức, https://lexetius.com/2007,3467 truy cập ngày 11/2/2021
[6] Wagner / Holtz / Dötsch (2020), Auswirkungen von COVID-19 auf Lieferverträge (Ảnh hưởng của COVID-19 đối với các hợp đồng cung cấp), Betriebs-Berater, tr.845, https://online.ruw.de/suche/bb/Auswirkungen-von-COVID-19-auf-Liefervertraege-f3752aafe8a6141ae12e22c9e7816519 truy cập ngày 11/2/2021
[7] Silvio Sittner (2020), Mietrechtspraxis unter Covid-19 (Thi hành luật thuê nhà trong Covid-19), NJW Heft 17/2020, tr. 1170, https://beck-online.beck.de/?vpath=bibdata%2fzeits%2fNJW%2f2020%2fcont%2fNJW%2e2020%2eH17%2eNAMEINHALTSVERZEICHNIS%2ehtm truy cập ngày 11/2/2021
[8] Jürgen Osterhammel (2010), The Transformation of the World: A Global History of the Nineteenth Century, https://press.princeton.edu/books/paperback/9780691169804/the-transformation-of-the-world , tr. 283 truy cập ngày 12/2/2021.
[9] Norbert Horn (1985), “Vertragsbindung unter veränderten Umständen: Zur Wirksamkeit von Anpassungsregelungen in langfristigen Verträgen” (Ràng buộc hợp đồng trong các trường hợp thay đổi: Vì hiệu lực của các quy định điều chỉnh trong hợp đồng dài hạn), NJW, https://beck-online.beck.de/Dokument?vpath=bibdata%2Fzeits%2Fnjw%2F1985%2Fcont%2Fnjw.1985.1118.1.htm&pos=13, tr. 1118, truy cập ngày 13/2/2021
[10]Christian Grüneberg (Munich: C.H. Beck, 2020), Palandt: Bürgerliches Gesetzbuch (Palandt: Bộ luật dân sự) tái bản lần thứ 79, § 313 đoạn 42.
[11] Jonas Laudahn, Dr. Birgit Münchbach, Simone Jäger (2020), Force Majeure - under German, French and US law, https://www.fgvw.de/en/news/archive-2020/force-majeure-under-german-french-and-us-law truy cập ngày 12/2/2021.
Nhận diện những khoảng trống pháp lý trong công tác phòng, chống tham nhũng
(Pháp lý) – Từ những nghiên cứu thực tế, PV Tạp chí điện tử Pháp lý xin điểm lại những khoảng trống pháp lý lớn trong công tác PCTN hiện nay cần sớm được các cơ quan chức năng nghiên cứu khắc phục.
Hội thảo khoa học về thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng tại TP HCM
Ngày 26/5/2022, VKSND TP HCM tổ chức Hội thảo khoa học “Đánh giá các biện pháp, hình thức thu hồi tài sản đạt hiệu quả cao trong các giai đoạn tố tụng hình sự và thi hành án dân sự của các vụ án kinh tế, tham nhũng tại TP HCM”.
Từ các vụ án kinh tế tham nhũng trọng điểm: Nhận diện những chiêu thức, thủ đoạn của tội phạm và kiến nghị bịt những lỗ hổng pháp luật về đất đai, đấu thầu, đấu giá…
(Pháp lý) - Nghiên cứu từ tố tụng các vụ án kinh tế tham nhũng lớn điều tra, xét xử thời gian qua, chúng ta có thể nhận diện được các chiêu thức, thủ đoạn điển hình mà các đối tượng đã sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, đặc biệt là thủ đoạn cấu kết tinh vi giữa doanh nghiệp với những quan chức có thẩm quyền trong việc đấu thầu, chỉ định thầu, ký quyết định mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất… gây thất thoát tài sản Nhà nước hàng nghìn tỉ đồng.
Từ các đại án liên quan đến sai phạm quản lý, sử dụng đất: Những vấn đề cốt lõi cần quan tâm sửa đổi Luật Đất đai
(Pháp lý) – Thời gian gần đây, hàng loạt các vụ án liên quan đến sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai được phanh phui, xử lý. Đặc biệt, liên quan đến các vụ án này, nhiều cán bộ lãnh đạo các tỉnh thành bị xử lý kỷ luật, khởi tố bắt giam. Nghiên cứu những chiêu thức, thủ đoạn , hành vi phạm tội của các bị can, bị cáo trong các vụ án này, phần nào có thể thấy rõ những lỗ hổng của Luật Đất đai đang hàng ngày, hàng giờ vô tình tiếp tay cho tiêu cực, tham nhũng. Từ đó, có thể thấy nhu cầu bức thiết của cuộc sống đòi hỏi phải khẩn trương sửa đổi Luật Đất đai. Và sau đây là những vấn đề cốt lõi cần tập trung sửa đổi, bổ sung đối với Luật Đất đai.
Nhu cầu bức thiết của cuộc sống đòi hỏi cần khẩn trương sửa đổi bổ sung Luật Đất đai.
Hàng loạt quan chức sa lầy trong các vụ án liên quan đến đất
Điển hình mới đây, Công an tỉnh Khánh Hòa vừa ra quyết định khởi tố vụ án vi phạm các quy định về quản lý đất đai, liên quan đến việc giao "đất vàng" ở Nha Trang cho doanh nghiệp tại Trường Chính trị Khánh Hòa để làm dự án BT. Được biết, đây là một trong số những vụ án mà Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Khánh Hòa tiếp nhận, tiến hành điều tra, liên quan đến sai phạm trong việc giao "đất vàng" ở Nha Trang cho doanh nghiệp để làm dự án BT.
Trước đó, theo kết luận của Thanh tra Chính phủ cuối năm 2020, từ tháng 1/2010 đến tháng 6/2017, tại tỉnh Khánh Hòa có 35 dự án sai phạm. Trong đó, rất nhiều dự án có đất nằm ở những khu vực trung tâm thành phố Nha Trang, vị trí đắc địa và phần lớn đều sử dụng đất công không thông qua đấu giá với nhiều hình thức khác nhau. Cũng trong giai đoạn này, thông qua cổ phần hóa, liên doanh, liên kết, nhiều khu đất do các doanh nghiệp Nhà nước đang sử dụng lần lượt về tay doanh nghiệp tư.
Liên quan đến những sai phạm nói trên, hàng loạt cán bộ lãnh đạo tỉnh Khánh Hoà đã bị xử lý kỷ luật bằng nhiều hình thức. Trong đó, cac ông Nguyễn Chiến Thắng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa, ông Lê Đức Vinh, Chủ tịch UBND tỉnh và ông Đào Công Thiên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã bị kỷ luật bằng hình thức cách hết chức vụ.
Vụ án 43ha đất vàng ở Bình Dương, diễn biến mới nhất vào ngày 27/2 vừa qua, Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam ông Lê Văn Trang - nguyên là Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Bình Dương, ông Võ Thanh Bình - nguyên Cục phó và Nguyễn Thái Thanh - Phó trưởng phòng Quản lý hộ kinh doanh cá nhân và thu khác, Cục Thuế tỉnh Bình Dương để điều tra về hành vi "Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí" theo điều 219 Bộ luật Hình sự.
Cho đến nay, Cơ quan Công an đã khởi tố 10 bị can về hành vi “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và hiện vụ án vẫn đang tiếp tục được mở rộng điều tra.
Tại TP.HCM, tháng 11/2018, Cơ quan CSĐT Bộ Công an khởi tố vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí xảy ra tại Tổng công ty Bia rượu nước giải khát Sài gòn (Sabeco). Đặc biệt, liên quan đến vụ án này, có hàng loạt quan chức lãnh đạo cơ quan từ địa phương đến trung ương bị khởi tố và bắt giam.
Theo đó, ông Vũ Huy Hoàng (cựu Bộ trưởng Bộ Công thương), bà Hồ Thị Kim Thoa (cựu Thứ trưởng Bộ Công thương hiện đang bị truy nã), ông Phan Chí Dũng (cựu Vụ trưởng Vụ công nghiệp nhẹ Bộ Công thương) bị đề khởi tố về tội Vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí.
Các bị can khác trực thuộc UBND Thành phố Hồ Chí Minh và các sở, ban, ngành gồm: Nguyễn Hữu Tín (cựu Phó Chủ tịch UBND), Đào Anh Kiệt (cựu Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường), Trương Văn Út (cựu Phó trưởng Phòng Quản lý đất, Sở Tài nguyên - Môi trường), Lê Văn Thanh (cựu Phó chánh Văn phòng UBND), Nguyễn Thanh Chương (cựu Trưởng Phòng Đô thị, Văn phòng UBND), Nguyễn Lan Châu (cựu chuyên viên Phòng Quản lý đất Sở Tài nguyên - Môi trường), Lâm Nguyên Khôi (cựu Phó Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư), Nguyễn Quang Minh (cựu Trưởng phòng Hạ tầng Sở Kế hoạch - Đầu tư) bị khởi tố về tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
Cũng tại TP HCM, liên quan đến vụ án cho thuê, giao “đất vàng” số 8 - 12 Lê Duẩn, Q.1, ông Nguyễn Thành Tài, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh và một số cán bộ thuộc cấp Sở của thành phố đã bị truy về tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí, vừa bị TAND TP.HCM tuyên xử (20/9), trong đó ông Tài bị kết án 8 năm tù.
Trong vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn, ông Trần Vĩnh Tuyến – đương kim Phó Chủ tịch UBND TPHCM vướng vòng lao lý vì liên quan đến việc chuyển nhượng trái phép dự án Khu dân cư Phước Long B, quận 9 có quy mô hơn 3,6 ha…
Trên đây chỉ là một vài ví dụ trong số hàng loạt vụ sai phạm về quản lý đất đai trên phạm vi cả nước trong thời gian gần đây. Nhưng đều cho thấy, đất đai như miếng mồi ngon để những chiếc vòi bạch tuộc tham nhũng bám lấy.
Nhận diện những lỗ hổng Luật Đất đai
Nghiên cứu từ những vụ án này có thể nhận thấy những bất cập của Luật Đất đai và các văn bản dưới luật đang có những lỗ hỗng lớn vô tình tiếp tay cho các nhóm lợi ích lợi dụng, thao túng, tự tung tự tác.
Thứ nhất, Luật Đất đai 2013 quy định, nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định giao đất, quyết định cho thuê đất, quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Như vậy việc quyết định quyền sử dụng đất (là một quyền tài sản) bằng một quyết định hành chính, do một người là đại diện cơ quan hành chính nhà nước ban hành. Quy định như vậy có thể tạo ra cơ chế xin – cho, dễ nảy sinh tham nhũng.
Thứ hai, Luật Đất đai chỉ quy định việc đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất chứ chưa quy định chặt chẽ, bắt buộc phải đấu giá đối với đất do doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng khi chuyển mục đích sử dụng đất. Vì thế, rất nhiều địa phương tìm cách lách luật bằng cách cho thuê đất, lập dự án cho hoạt động thương mại dịch vụ, có thời hạn sử dụng đất là 50 năm, sau một hai năm cho phép sử dụng lâu dài, chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở, để tránh phải đấu giá đất. Đồng thời quy định về đối tượng được giao đất, cho thuê đất không qua đấu giá còn khá rộng, chưa cụ thể.
Biểu hiện cụ thể của nó là những sai phạm của các quan chức trong việc ban hành các quyết định giao đất, cho thuê đất trái thẩm quyền, không qua đấu giá đấu thầu, gây thất thoát, lãng phí tài nguyên, tài sản và ngân sách Nhà nước.
Những sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai công sản khiến hàng loạt lãnh đạo quan chức nhiều tỉnh thành và cả cấp Bộ bị khởi tố
Chính những lỗ hổng nêu trên đã tiếp tay cho các đối tượng liều lĩnh giao khu đất vàng 2-4-6 Hai Bà Trưng, TP.HCM cho Sabeco Pearl và được hưởng ưu đãi thuê đất tới 50 năm trả tiền 1 lần; hay khu đất “vàng” rộng gần 5.000 m2, nằm tại số 8 – 12 Lê Duẩn, Quận 1 (TP.HCM) giao cho Công ty CP đầu tư Lavenue để thực hiện dự án mà không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất.
Điển hình như trong vụ vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí xảy ra tại Sabeco, khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng (quận 1, TPHCM) được sắp xếp giao cho Tổng công ty Sabeco (là DNNN thuộc Bộ Công Thương, vốn nhà nước chiếm 89,59%) để quản lý, sử dụng, đầu tư, xây dựng khách sạn 6 sao… và không được thành lập pháp nhân mới. Tuy nhiên ông Vũ Huy Hoàng vẫn chấp thuận chủ trương, chỉ đạo để bộ phận quản lý vốn nhà nước tại Sabeco triển khai thực hiện việc liên doanh, liên kết thành lập Công ty Sabeco Pearl trái với quy định.
Căn cứ ý kiến phê duyệt, chỉ đạo của ông Vũ Huy Hoàng, bà Hồ Thị Kim Thoa, ông Phan Đăng Tuất (Chủ tịch hội đồng quản trị) ký công văn số 374 kèm theo các văn bản chấp thuận của Bộ Công Thương đề nghị UBND TPHCM chấp thuận cho Sabeco Pearl được làm chủ đầu tư dự án, thực hiện nghĩa vụ tài chính và chuyển quyền sử dụng đất từ Tổng công ty Sabeco sang Công ty Sabeco Pearl.
Từ đó các sở, ngành thuộc UBND TPHCM tham mưu cho bị can Nguyễn Hữu Tín ký ban hành quyết định cho Sabeco Pearl thuê đất trái các quy định pháp luật.
Thứ ba, để tạo điều kiện cho những cá nhân, doanh nghiệp có thể tiếp cận và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai. Đặc biệt những cá nhân, doanh nghiệp có quỹ đất nhưng không có tài chính có thể kết hợp với những cá nhân doanh nghiệp có nguồn tài chính dồi dào nhưng lại không có quỹ đất cùng nhau phát triển sản xuất kinh doanh, gia tăng giá trị sử dụng nguồn lực đất đai. Luật đất đai cho phép sử dụng quyền sử dụng đất để góp vốn kinh doanh.
Khoản 3 Điều 10, Luật Đất đai quy định: Góp vốn bằng quyền sử dụng đất là một trong những cách thức chuyển giao quyền sử dụng đất từ người này sang người khác. Đồng thời, khoản 1 điều 99 cũng quy định rõ, người nhận góp vốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy, tài sản là quyền sử dụng đất có thể dùng để góp vốn vào doanh nghiệp, quyền sử dụng đất đó được chuyển từ người góp vốn sang cho doanh nghiệp và trở thành tài sản của doanh nghiệp, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, đây lại chính là kẽ hở rất lớn để nhóm lợi ích biến đất công về tay của tư nhân với giá rẻ mạt, với chiêu thức phổ biến là qua con đường góp vốn thành lập những doanh nghiệp liên doanh công – tư, rồi thoái vốn bằng cách chuyển nhượng cổ phần.
Điều này có thể thấy rõ trong các vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”. Điển hình như trong vụ đất vàng 8-12 Lê Duẩn. Theo đó, khu đất 8-12 Lê Duẩn (quận 1, TPHCM) cũng khiến một phó chủ tịch UBND TPHCM khác là ông Nguyễn Thành Tài bị khởi tố. Khu đất này được xác lập sở hữu Nhà nước vào năm 1994 và giao cho Công ty Quản lý kinh doanh nhà ký hợp đồng cho bốn công ty của Bộ Công Thương thuê đất, trả tiền hằng năm.
Năm 2008, UBND TPHCM ra quyết định thu hồi nhà đất số 8-12 Lê Duẩn để thực hiện dự án xây dựng khách sạn cao cấp. Tuy nhiên, bốn doanh nghiệp này nợ tiền thuê, không chịu dời đi và có nhiều văn bản kiến nghị UBND, Thành ủy TPHCM và Bộ Công Thương đề nghị được tạo điều kiện mua chỉ định hoặc tham gia thực hiện dự án.
Dù kiến nghị nói trên không được UBND TPHCM đồng ý nhưng ông Nguyễn Thành Tài vẫn ký công văn chấp thuận chủ trương cho Công ty Quản lý kinh doanh nhà làm chủ đầu tư dự án và liên doanh (góp 50% vốn điều lệ), liên kết với bốn công ty đang thuê (góp 50%).
Tiếp đó, Công ty Quản lý kinh doanh nhà có công văn gửi UBND TP đề xuất cho sự hình thành tư cách pháp nhân mới (sau này là Công ty Lavenue) theo hình thức công ty cổ phần. Trong pháp nhân mới này bắt đầu xuất hiện thêm các nhà đầu tư mới với sự chấp thuận của ông Nguyễn Thành Tài. Trong đó, công ty Hoa Tháng Năm tham gia góp cùng Công ty Quản lý Kinh doanh nhà 30% vốn điều lệ; bốn công ty thuộc Bộ Công Thương bán lại 50% còn lại cho công ty Kinh Đô để cấn nợ.
Như vậy, Công ty Lavenue có tỷ lệ sở hữu cổ phần của Công ty Quản lý kinh doanh nhà 20%, Công ty Kinh Đô 50%, Công ty Hoa Tháng Năm 30%. Phần vốn góp của tư nhân đã chiếm đa số (80%) trong cơ cấu sở hữu này. Và cũng từ đây, dự án khách sạn cao cấp tại khu đất 8-12 Lê Duẩn chính thức rơi vào tay tư nhân.
Với chiêu thức này, đối tượng lợi dụng doanh nghiệp nhà nước có quỹ đất dồi dào thường bắt tay cùng doanh nghiệp tư nhân để thành lập những doanh nghiệp liên doanh (pháp nhân mới) với vốn góp là những khu đất vàng được nhà nước giao quản lý, khai thác và sử dụng. Đồng thời tận dụng chủ trương cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đất công dần ra khỏi doanh nghiệp nhà nước bằng con đường chuyển nhượng cổ phần lòng vòng về tay tư nhân. Như trong vụ 43ha đất Bình Dương; vụ Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn; vụ Sabeco…
Thứ tư, quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện giao đất để thực hiện dự án đặc biệt đối với các dự án BT cũng không hợp lý, không cụ thể, dẫn đến tình trạng chủ đầu tư không đủ năng lực triển khai.
Luật Đất đai năm 2013 chỉ có khoản 3 Điều 155 quy định về việc Nhà nước giao cho nhà đầu tư quản lý diện tích đất để thực hiện dự án. Ngoài ra không có quy định cụ thể nào về đất đai, loại đất, giá trị đất đai để trả cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án BT. Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định thi hành chi tiết Luật Đất đai có riêng Điều 54 quy định về đất thực hiện dự án BT và BOT. Tuy nhiên, Nghị định này cũng chỉ quy định về việc nhà nước giao đất và chuyển giao đất, không hề có quy định gì về loại đất đem đổi và xác định giá trị đất đai đem đổi.
Như vậy, đang tồn tại một khoảng trống pháp lý rất lớn về dự án BT tại Luật Đất đai và văn bản hướng dẫn Luật này, trong khi nhiều văn bản khác về BT lại quy chiếu về việc thực hiện theo quy định của Luật Đất đai. Bên cạnh đó, quy định về thời điểm giao đất để thanh toán dự án BT và thời điểm giao dự án BT còn bất cập, không rõ ràng khiến việc thanh toán dự án bằng quỹ đất không đảm bảo nguyên tắc ngang giá. Chính điều này dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng trong việc giao "đất vàng" ở Nha Trang cho doanh nghiệp để làm dự án BT.
Khu "đất vàng" số 1 Trần Hưng Đạo, TP Nha Trang vốn là đất cơ quan Trường Chính trị tỉnh Khánh Hòa, nay đã thành trung tâm thương mại, nhà ở, khách sạn của doanh nghiệp.
Thứ năm, nhiều quy định pháp luật về định giá đất còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa phù hợp thực tế. Theo đó, một trong những nguyên tắc định giá đất là phải “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường” (điểm c, khoản 1, Điều 112) nhưng trên thực tế thực hiện thì hầu như lại thoát ly khỏi giá cả thị trường. Ngay từ khi thông qua Luật Đất đai năm 2013, Tổng Cục Quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ ra rằng, khung giá đất của Nhà nước chỉ bằng khoảng 20% khung giá đất thị trường. Tương tự như thế, khung giá đất của cấp tỉnh cũng chỉ bằng từ 30 đến 60% giá đất thị trường tại địa phương.
Đáng lưu ý, toàn bộ quy trình định giá đất đều do cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện. Mặc dù, Điều 115 và Điều 116 có đề cập đến tư vấn giá đất nhưng cũng chưa có quy định bảo đảm cho tổ chức tư vấn giá đất thực sự có vị trí độc lập… Do vậy, giá đất mang nặng tính “áp đặt”…
Những vấn đề cốt lõi cần sửa đối với Luật Đất đai
Từ thực tế nghiên cứu các đại án liên quan đến đất đai cho thấy, rất khó để ngăn ngừa hành vi tương tự xảy ra trong tương lai, nếu như không bịt được lỗ hổng của pháp luật. Điều này đặt ra nhu cầu bức thiết cần phải sửa đổi Luật Đất đai để bịt các lỗ hổng như đã phân tích ở trên. Theo chúng tôi, để bít được những lỗ hổng này thì việc sửa đổi bổ sung Luật Đất đai cần tập trung vào những vấn đề cốt lõi sau:
1. Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến quy hoạch sử dụng đất; cơ chế giao đất, cho thuê đất theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất và hình thức chỉ định; chuyển mục đích sử dụng đất nhằm… để đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật nói chung, sự đồng bộ, thống nhất giữa Luật đất đai với các luật liên quan như Luật quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Nhà ở….
2. Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến việc chuyển dịch đất đai như thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tiếp cận đất đai để tổ chức sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội nhưng đồng thời ngăn chặn được nhóm lợi ích lợi dụng để biến đất công thành tư.
3. Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến tài chính đất đai, giá đất nhằm một mặt giải quyết những ách tắc trong tổ chức thực hiện mặt khác khắc phục tình trạng lợi dụng trục lợi, tham nhũng từ đất đai…
Đinh Chiến– Văn Thư
Từ thực tiễn kê biên tài sản thi hành các đại án: Nhận diện bất cập và kiến nghị giải pháp khắc phục ?
(Pháp lý) – Kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm đảm bảo thi hành phần dân sự trong bản án hình sự. Tuy nhiên từ thực tiễn tố tụng và thi hành các đại án trong thời gian qua cho thấy pháp luật về kê biên tài sản đảm bảo THA đang bộc lộ sự bất cập, khiến cho việc thu hồi tài sản của Nhà nước do người phạm tội gây ra gặp rất nhiều khó khăn. Vậy những bất cập đó là gì và giải pháp nào để khắc phục ?
Trường Đại học Luật Huế: Hội thảo khoa học trực tuyến: “Hòa giải các tranh chấp dân sự và kinh doanh thương mại”
(Pháp lý) – Sáng nay 29-12, Trường Đại học Luật Huế phối hợp cùng Trung tâm Hòa giải thương mại Công Minh tổ chức Hội thảo khoa học trực tuyến về “Hòa giải các tranh chấp dân sự và kinh doanh thương mại”. Hội thảo đã thu hút hơn 100 đại biểu là các chuyên gia luật có học vị PGS, TS, ThS đang giảng dạy tại Trường Đại học Luật Huế, Trường Đại học Luật TPHCM, Học viện Hành chính quốc gia; và đang làm việc tại TAND các cấp và các văn phòng luật sư…
Chế tài đối với pháp nhân thương mại phạm tội: Qui định của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
(Pháp lý) – Bộ luật Hình sự năm 2015 của Việt Nam lần đầu qui định trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Theo đó, hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại được quy định tương đối phong phú như: phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn… Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt nếu áp dụng chế tài đối với pháp nhân như đình chỉ hoạt động vĩnh viễn hoặc cấm kinh doanh …, sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, các cá nhân, pháp nhân khác có liên quan đến pháp nhân thương mại phạm tội.
Vì vậy, nghiên cứu, tham khảo những qui định về hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội của một số nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực ASEAN, để có những kinh nghiệm pháp lý trong hoàn thiện chế định điều chỉnh, xử lý pháp nhân thương mại phạm tội ở VN.
Phạt tiền đối với pháp nhân là hình phạt duy nhất được áp dụng ở nhiều nước
Tại Anh, chế định TNHS của pháp nhân lần đầu tiên được ghi nhận trong Đạo luật hình sự do Ủy ban cải cách luật hình sự của Anh trình Nghị viện năm 1987.
Theo đó, pháp nhân chịu TNHS cùng một tư cách như cá nhân về những tội phạm theo chế độ trách nhiệm tuyệt đối và trách nhiệm thay thế; Pháp nhân cũng phải chịu TNHS đối với những tội phạm khác, nếu những tội phạm này được thực hiện bởi một trong những người có trách nhiệm kiểm tra, giám sát của pháp nhân và họ hoạt động trong khuôn khổ chức năng của pháp nhân với mức độ lỗi cần thiết.
Về chế tài áp dụng đối với pháp nhân phạm tội, Luật hình sự Anh quy định hình phạt chính áp dụng đối với pháp nhân phạm tội duy nhất là hình phạt tiền. Tuy nhiên, Luật hình sự Anh không quy định căn cứ quyết định hình phạt cũng như mức phạt tiền cụ thể cho từng tội phạm mà do tòa án xem xét quyết định trong các trường hợp cụ thể; nhưng thông thường, trong những trường hợp tổ chức và thể nhân cùng phải chịu TNHS, thì mức phạt đối với tổ chức cao hơn đối với thể nhân. Ngoài ra, trong một số trường hợp, cùng với phạt tiền, tòa án có thể thông báo công khai bản án như là một biện pháp hình sự bổ sung.
Nhiều nước trên thế giới coi phạt tiền là hình phạt duy nhất và hiệu quả nhất áp dụng đối với pháp nhân phạm tội
Tại Mỹ, đầu thế kỷ XX, các Toà án Hoa Kỳ đã áp dụng TNHS đối với pháp nhân phạm các loại tội có yếu tố ý định phạm tội và xác định những hành vi phạm tội của những cá nhân nhất định – những người quản lý mới có thể dẫn đến TNHS của pháp nhân.
Trong pháp luật hình sự hiện nay của Mỹ, về cơ bản, có bốn loại văn bản pháp luật ở cấp độ Liên bang đề cập đến việc đấu tranh chống hoạt động phi pháp của các tập đoàn bằng các chế tài pháp lý hình sự là: Các đạo luật chống độc quyền; Các đạo luật chống việc quảng cáo giả dối; Các đạo luật chống các vi phạm trong các quan hệ lao động và; Các đạo luật chống các vi phạm về quyền tác giả và các quy định về nhãn hiệu hàng hóa.
Ngoài ra, TNHS của pháp nhân còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác ở cấp độ Liên bang. Đặc biệt là Đạo luật về kiểm tra tình trạng phạm tội có tổ chức (năm 1970) và Đạo luật về tổ chức có tính chất tội phạm hoạt động thường xuyên…
Phạt tiền là hình phạt chủ yếu được áp dụng với pháp nhân phạm tội. Theo Luật về cải cách áp dụng hình phạt của Mỹ vào năm 1984, loại hình phạt áp dụng bởi tòa án liên bang của Mỹ, được dựa trên những khuyến nghị theo “Hướng dẫn áp dụng hình phạt” được soạn thảo bởi Ủy ban áp dụng hình phạt của Mỹ.
Theo khuyến nghị của Ủy ban áp dụng hình phạt đối với việc thi hành bản án của các tổ chức, tòa án trước tiên phải “buộc các tổ chức bồi thường mọi thiệt hại gây ra bởi hành động phạm pháp của mình” nhằm khôi phục toàn vẹn cho những người bị hại.
Toà án sẽ ra một lệnh buộc pháp nhân phạm tội phải bồi thường những thiệt hại mà pháp nhân gây ra cho nạn nhân. Toà án sẽ không ra lệnh buộc bồi thường nếu như số lượng nạn nhân quá lớn dẫn đến việc bồi thường là không khả thi hoặc việc xác định nguyên nhân và mức thiệt hại phức tạp và kéo dài thời gian tố tụng không cần thiết. Nếu tài sản của pháp nhân không đủ để thanh toán bồi thường và nộp tiền phạt thì nghĩa vụ bồi thường được ưu tiên trước.
Trong mọi trường hợp, khi áp dụng hình phạt tiền, Tòa án phải cân nhắc hai yếu tố – mức độ nghiêm trọng của tội phạm và lỗi của tổ chức. Yếu tố đầu tiên, “mức độ nghiêm trọng của tội phạm”, được xác định bằng cách tính toán lợi ích về tiền tệ, nhận được bởi các tổ chức do kết quả của những hành động bất hợp pháp và các thiệt hại gây ra cho người bị hại bởi những hành động bất hợp pháp.
Yếu tố thứ hai, “lỗi của tổ chức” được xác định dựa trên một số yếu tố khác như các biện pháp để phòng ngừa việc phát hiện và điều tra các hành động bất hợp pháp mà tổ chức đã thực hiện tính đến thời điểm thực hiện tội phạm; mức độ tham gia của một số loại nhân viên trong các hoạt động bất hợp pháp; hành động của tổ chức sau khi phạm tội; lịch sử hoạt động của tổ chức…
Ngoài ra, pháp nhân phạm tội còn có thể chịu hình phạt khác như: Quản chế, dịch vụ công ích… Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, thời hạn quản chế đối với trọng tội từ 01 năm đến 05 năm, đối với trường hợp khác thì không quá 05 năm. Trong thời gian quản chế, pháp nhân không được: thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào.
Cũng tương tương tự, luật hình sự Australia quy định hình phạt duy nhất được áp dụng đối với tổ chức phạm tội cũng là hình phạt tiền. Đồng thời, mức phạt tiền không được quy định cụ thể mà do tòa án quyết định trong từng trường hợp cụ thể.
Chế tài hình sự đối với pháp nhân phạm tội tại Việt Nam so với một số nước ASEAN
Tại khu vực ASEAN, một số quốc gia như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines đều ghi nhận TNHS đối với pháp nhân trong Luật hình sự. Song, so với nhiều nước trên thế giới, hầu hết các nước này quy định cụ thể TNHS của pháp nhân trong các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Như tại Singapore, quan điểm xử lý hình sự tổ chức phạm tội được thể hiện trong quy định về chủ thể của tội phạm của Bộ luật hình sự của Singapore. Theo giải thích của Bộ luật hình sự Singapore thì người phạm tội trong các quy định về chủ thể của tội phạm bao gồm công ty, hội hoặc cá nhân. Với quy định này, Bộ luật hình sự Singapore đã khẳng định chủ thể của tội phạm bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Phù hợp với quy định này, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành cũng quy định các hành vi phạm tội do tổ chức thực hiện.
Theo đó, hình phạt đối với các chủ thể phạm tội cũng được quy định cụ thể trong các văn bản luật chuyên ngành này. Hình phạt duy nhất được áp dụng đối với tổ chức là hình phạt tiền với mức tiền phạt thường được quy định cao gấp đôi hoặc gấp ba mức tiền phạt được áp dụng đối với cá nhân phạm tội tương ứng.
Ví dụ, Điều 4C Đạo luật về Ngân hàng quy định TNHS đối với người cản trở việc điều tra các vi phạm về ngân hàng, trong trường hợp cá nhân phạm tội thì bị phạt tiền đến 12.500 đô la hoặc phạt tù đến 12 tháng hoặc cả hai hình phạt đó… Trong trường hợp tổ chức phạm tội thì bị phạt đến 25.000 đô la.
Luật Kiểm soát xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh chất thải nguy hại của Singapore quy định hình phạt đối với các hành vi nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh trái phép chất thải nguy hại tại các Điều 25, 26 và 27. Theo đó, trường hợp chủ thể là cá nhân thì bị phạt tiền đến 100.000 đô la Singapore hoặc phạt tù không quá 2 năm hoặc bị áp dụng cả hai hình phạt đó; trường hợp chủ thể là pháp nhân thì bị phạt tiền đến 300.000 đô la Singapore…
Cũng tương tự Singapo, tại Thái Lan, Malaysia, TNHS của tổ chức được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Hình phạt được áp dụng duy nhất đối với pháp nhân phạm tội đều là hình phạt tiền.
Tuy nhiên, tại Indonesia và Philippines ngoài hình phạt chính là phạt tiền, tổ chức phạm tội còn còn có thể bi áp dụng các chế tài khác như: buộc đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh, đặt hoạt động kinh doanh dưới sự giám sát hành chính, công bố phán quyết của thẩm phán, rút giấy phép kinh doanh…
So với các nước láng giềng trong khu vực ASEAN, Việt Nam lần đầu thừa nhận TNHS của pháp nhân thương mại trong BLHS năm 2015. Theo đó, chế tài hình sự đối với pháp nhân phạm tội của Việt Nam tương đối phong phú như phạt tiền, đình chỉ hoạt động, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn…
Chế tài hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội tại VN gồm: phạt tiền, đình chỉ hoạt động, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn…
Theo quy định tại Điều 33 BLHS, hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm: phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Theo đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại để quyết định hình phạt.
Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng; đình chỉ hoạt động từ 6 tháng đến 3 năm hoặc bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động.
Ngoài ra, pháp nhân phạm tội còn có thể chịu các hình phạt bổ sung như: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định từ 1 năm đến 3 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; Cấm huy động vốn; Phạt tiền (khi không áp dụng phạt tiền là hình phạt chính).
Tại Singapo, Thái Lan, Malaysia, TNHS của tổ chức được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Hình phạt được áp dụng duy nhất đối với pháp nhân phạm tội tại các nước này đều là hình phạt tiền.
Một số kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Có thể thấy, dù Việt Nam quy định hệ thống chế tài hình sự tương đối phong phú như: phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn… Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn thời gian qua phát sinh nhiều bất cập. Đặc biệt nếu áp dụng một số chế tài với pháp nhân như đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh,….sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, các cá nhân, pháp nhân có liên quan khác… Bởi, trong một số trường hợp, nếu đình chỉ hoạt động đối với pháp nhân thương mại thì có thể khiến hàng trăm lao động thậm chí hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Ngoài ra, khi áp dụng những hình phạt này còn có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực khác.
Do đó, chúng ta cần cân nhắc khi áp dụng hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Có thể học hỏi kinh nghiệm của một số nước trong việc áp dụng một số hình phạt theo hướng thay vì chấm dứt sự tồn tại của một pháp nhân, sử dụng những chế tài giúp cho pháp nhân cải tổ nội bộ, tuân thủ pháp luật và thực hiện hành động phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội như hình phạt quản chế, giám sát hành chính, tăng cường áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, tăng hình phạt tiền…
Văn Chiến